Bản làng dân tộc Chứt ở Rào Tre có 37 hộ với gần 134 nhân khẩu, là một dân tộc ít người và phát triển còn chậm nhất trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phát hiện ra khoảng 35 năm về trước, nhưng họ chỉ nay đây mai đó, sống ẩn giật trong rừng. Đến năm 1990-1991 bà con mới được Bộ đội Biên Phòng Hà Tĩnh đưa từ các hang đá trong rừng về lập bản định cư tại vùng Rào Tre dưới chân núi Ka Đay, xã Hương Liên. Cuộc sống của bà con ở đây chủ yếu dựa vào khai thác một số ít sản vật rừng như lấy mây, lá nón để bán; săn bắt chuột, chim rừng để ăn; làm thuê kiếm thêm tiền và rượu uống… nhưng chủ yếu là chu cấp của Nhà nước, các tổ chức cá nhân ủng hộ. Họ chưa chủ động được kế hoạch cuộc sống từ việc sản xuất, chăn nuôi, chi tiêu của mình; đang còn hoang sơ với vô vàn khó khăn và sự vô tư của một tộc người. Điểm lẻ trường Mầm non Hương Liên tại bản Rào Tre là lớp học chung với hội quán của xóm, một lớp ghép từ 2 đến 4 tuổi, hàng chục năm nay do cô Hương chăm nuôi và giảng dạy.
“Việc chăm sóc, dạy học cho trẻ em ở đây đầy những gian nan vất vả. Sáng nào cũng thế, không kể ngày mưa, ngày nắng cô cùng Bộ đội Biên phòng tại trạm Rào Tre cũng đến từng nhà để gọi, đón các cháu đến lớp. Người Chứt có đặc điểm là thức khuya dậy muộn. Tối thì chơi cả đêm, mở loa đài ầm ầm, nhưng sáng mai không dậy sớm để làm việc. Đưa đến lớp vào học rồi nhưng ra chơi lại lẻn về nhà hoặc trốn đi không ở lớp nữa. Đến nhà, nếu gặp cha mẹ thì cũng bảo là hắn không thích học thì hắn về, cô muốn hắn học thì cứ bắt hắn lên lớp đi mình không biết mô. Phần lớn bố mẹ các cháu đều thất học hoặc được học thì nay cái chữ cũng đã mòn theo núi rừng mà cạn kiệt rồi, nỏ có ai hỗ trợ cho các cháu trong học tập. Đặc điểm người Chứt có mùi mồ hôi khác với người kinh chúng ta (!). Cô Đỉnh tâm sự “Em phải chăm lo lau rửa cho các cháu thường xuyên, ngày nắng mùi mồ hôi, ngày rét thì từ cơ thể và quần áo ít được tắm giặt, thay thế… nhưng em giờ cũng quen mùi rồi. Từ khi dạy tại bản, lớp học chỉ mình em từ lau rửa, chuẩn bị bữa phụ, nước nôi, chăm sóc, giáo dục, tổ chức các hoạt động; quay trở không kịp, em phải có một thời gian biểu và thực hiện nó rất nghiêm ngặt; chuẩn bị thực đơn bữa ăn phụ, công việc từ tối hôm trước, sáng sớm phải tranh thủ mua sắm trước khi đi sang bản, đến từng nhà đưa đón các cháu vào lớp. Ngoài ra cũng nhờ sự hỗ trợ, giúp sức của gia đình một số công việc. Phải chắt chiu trong đồng lương mua sắm một số đồ dùng, đồ chơi, có lúc là đôi dép, là bộ quần áo mới vì rất thương các cháu quá khó khăn” .
Vốn mới đi ra từ tự nhiên nên họ vẫn còn rất nhiều nếp sống mang tính tự nhiên và cuộc sống cũng đang trong chọn lọc tự nhiên, ít tự chăm lo cho bản thân mình ngay cả người lớn chưa nói gì đến các cháu, cô thật sự là người mẹ thứ 2 của các cháu.
Mười năm cùng các cháu, cùng bà con, cô đã biết hết các góc nhà, tính nết của mọi người ở đây. Nóc nhà sàn nào ở đây mà không có con, cháu đã từng qua tay cô chăm sóc. Để tiếp xúc và làm tốt công tác giáo dục cô đã tự học tiếng của người Chứt. Thông qua hoạt động, qua trao đổi và từ các buổi ngoài giờ dạy đến nhà bà con để tự học. Cách học của cô là thông qua trao đổi, các đồ vật, các biểu tượng để học, để hiểu vấn đề. Người Chứt ở Rào Tre không có ngôn ngữ viết mà có ngôn ngữ nói. Hàng ngày các em và bà con thường nói với nhau bằng tiếng của dân tộc mình. Do vậy để dạy tốt thì khi các em trao đổi, trò chuyện với nhau cái gì cô phải biết, hoặc hiểu được nội dung cuộc thoại giữa các cháu và phụ huynh; đây là động lực bắt buộc phải tự học để biết, hiểu tiếng của đồng bào. Hàng chục năm tự học, từ từng góc nhà sàn, để ý từng cử chỉ, cách diễn đạt của bà con cô đã có được một vốn kiến thức để hiểu về tiếng nói của dân bản. Tuy còn ít nhưng rất hiệu quả, đây có lẽ là ngọn đèn soi đường để cô thực hiện đam mê, bước qua khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Hiện tại cô là người duy nhất trong ngành hiểu được đối thoại của các cháu và nói được một số tiếng của đồng bào.
Trung tá Dương Thanh Tịnh, trạm trưởng biên phòng Rào Tre (đồn biên Phòng Bản Giàng) người gắn bó, cống hiến và thẩu hiểu cuộc sống, con người bà con dân tộc Chứt nhất, đã dành lời nhận xét: “ Với cô Đỉnh – không chỉ cô Đỉnh mà cả chồng cô ấy đã nhiều hi sinh, thật sự là đã cống hiến nhiều cho con em dân tộc ở đây. Mỗi buổi sáng và đầu chiều không kể ngày mưa, ngày nắng cô đến tận các nhà sàn để đón các cháu đến lớp; cô mua bánh, kẹo, dép, thậm chí là áo quần cho các cháu từ đồng lương của mình. Tại bản Rào Tre, theo cơ quan y tế, bà con dân tộc ở đây do cuộc sống hoang sơ, do cận huyết thống, sức đề kháng yếu nên tỉ lệ bị nhiễm bệnh lao rất cao, thế mà cô Đỉnh vẫn tận tụy, gần gũi chăm sóc các cháu như con đẻ của mình. Mười năm dạy học sinh dân tộc thiểu số với bao lăn lộn, hi sinh, nguy cơ lây nhiễm bệnh tật rình rập mà cô cũng chẳng được một loại phụ cấp khác nào, cũng không nghe cô đòi hỏi một lời. Thật là một người đáng nể, một chuyện cổ tích giữa thời hiện đại hôm nay… Học sinh học ở bản đã hàng chục năm nay nhưng lớp học vẫn cùng hội quán, cần đầu tư xây dựng lớp học để công tác chăm nuôi, giáo dục các cháu được tốt hơn”.
Cô Giáo Nguyễn Thị Hoa hiệu trưởng trường mầm non Hương Liên đã dành sự chia sẻ chân tình khi nói về nhân viên của mình: “Trường Mầm non Hương Liên thật may mắn có những người như cô Hương, một người thật sự tận tình, yêu thương các cháu dân tộc Chứt. Cô tự bỏ tiền ra để mua bánh kẹo, chuẩn bị bữa ăn phụ hàng năm cho các cháu sau hàng năm mới thanh toán được, đó là các cháu lứa tuổi có chế độ hỗ trợ, còn một số cháu không có hỗ trợ thì chỉ chờ vào hảo tâm, chắc chiu của nhà trường hoặc là cô nuôi không các cháu. Thấy cô ở với bản vất vả quá, đã mấy lần trường cho cô về trung tâm, nhưng rồi cô tình nguyện ở lại vì cô không đến lớp là trò cũng không đến lớp…và cô lại gắn bó với bản. Mong Giàng phù hộ cho cô có sức khỏe để còn cống hiến, để trọn tình người mẹ thứ 2 của các thể hệ mầm non dân tộc Chứt”.
Mười năm một mình dạy nhóm trẻ 2-4 tuổi ở bản Rào Tre, 10 gắn bó với núi Cà Đay, 10 năm qua lại ngọn nước Rào Say, khó khăn chồng chất nhưng cô vẫn miệt mài học tập để có bằng đại học; miệt mài rèn luyện để nâng cao chuyên môn, phấn đấu để đạt các danh hiệu và cô đã 2 lần đạt danh hiệu giáo viên mầm non dạy giỏi cấp huyện. Năm 2015 sáng kiến kinh nghiệm “Dạy học Tiếng Việt cho các cháu dân tộc Chứt” của cô đạt bậc 3 cấp huyện.
Ghi nhận sự cống hiến của cô Hương cho các cháu và bà con dân tộc Chứt tại bản Rào Tre, tại Hội nghị Điển hình tiên tiến ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2010 – 2015 cô là đại biểu đặc cách tham gia hội nghị.