Các bạn down toàn bộ cuốn sách ơ đây
NGUYỄN TRỌNG TẠO
(Trường ca Đồng Lộc)
Mãi biết ơn Mười cô gái Anh hùng cùng hy sinh ở Ngã Ba Đồng Lộc, Anh hùng La Thị Tám và những người đã gợi cho tôi viết trường ca này.
NTT
Tác giả chân thành cám ơn Sở Văn hoá Thể thao &Du lịch Hà Tĩnh,
Những năm chiến tranh ác liệt ấy, khi tôi đến Ngã Ba Đồng Lộc thì Mười cô gái Anh hùng bám trụ giữa trọng điểm này đã hy sinh, thế mà tôi và đồng đội vẫn không kịp thắp một nén hương. Những người lính chúng tôi vẫn tiếp tục đi về phương Nam. “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Câu thơ của Phạm Tiến Duật lúc ấy là vô cùng chân thực, nó đúng với tâm trạng người lính, đúng với tâm trạng những người đi vào cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” lúc bấy giờ. Dù chỉ đi qua, nhưng những địa danh quanh Đồng Lộc vẫn ghi vào trí nhớ của tôi, đến nỗi sau đó đọc được bài thơ Qua cầu Tùng Cốc của Phạm Tiến Duật, một cây cầu nhỏ gần ngã ba Đồng Lộc, là tôi bị ấn tượng ngay, rồi lập tức hát lên thành một bài hát đến giờ tôi vẫn nhớ: “Tùng Cốc! Tùng Cốc! Qua cây cầu này rồi ta lên dốc/ Đêm hoa xoan hoa khế một màu/ Qua cầu Tùng Cốc! Ta qua cầu Tùng Cốc/ Đạn trên xe và sao sáng trên đầu…”.
Mấy năm sau, đơn vị tôi đóng quân ở Hà Tĩnh, nhà thơ Nguyễn Quốc Anh đưa tôi đi xe đạp thăm lại Đồng Lộc. Tôi thấy những ngôi mộ liệt sĩ ở đây đều được dựng bia nhỏ và trên mỗi tấm bia được khắc một ngôi sao. Chúng tôi tha thẩn rất lâu bên những ngôi mộ của Mười cô gái Anh hùng, lòng trào lên những cảm giác khó tả, vừa thương cảm vừa kính trọng. Nhưng khi Nguyễn Quốc Anh chỉ về phía 10 cây bạch đàn và nói: “Hồi trước đây trồng nhiều bạch đàn, nhưng sau bom đạn chỉ con lại 10 cây này. Nó cứ sống như có một linh ứng nào đấy với 10 cô gái Đồng Lộc”. Câu nói ấy đã khiến tôi muốn viết một bài thơ về 10 cây bạch đàn như là sự tồn tại linh hồn mười nữ thần tiêu biểu cho Đồng Lộc những năm chiến tranh ác liệt. Đêm đó tôi viết nháp bài thơ mà không thành. Và tôi nghĩ: Phải viết trường ca mới nói được sự lớn lao của những con người ở đây.
Mấy năm sau, đất nước thống nhất, tôi được Tổng cục Chính trị gọi về Hà Nội tham gia Trại viết văn quân đội để viết về chiến tranh. Lúc này ở Khu 5, Thanh Thảo đang viết trường ca Những người đi tới biển. Trại chúng tôi cũng đua nhau viết trường ca. Hữu Thỉnh viết Đường tới thành phố, Nguyễn Đức Mậu viết Trường ca Sư Đoàn, và tôi, cũng đặt bút lên cuốn sổ giấy trắng viết một dòng chữ lớn: CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG VÌ SAO hay TRƯỜNG CA ĐỒNG LỘC.
Trước khi viết trường ca này, tôi tìm đọc khá nhiều tư liệu về Đồng Lộc thời chiến tranh. Tôi rất xúc động về những gương chiến đấu dũng cảm tuyệt vời như Anh hùng dũng sĩ phá bom Vương Đình Nhỏ, Anh hùng La Thị Tám, và đặc biệt là sự hy sinh bất tử của mười cô gái thanh niên xung phong làm chấn động năm châu. Khi đọc được những lá thư các cô gửi về gia đình trước khi chết, tôi đã trào nước mắt. Cả một thế hệ trẻ đã biết gác tình riêng tự nguyện ra đi vì nghĩa lớn!
Có nhiều câu chuyện có thể viết thành truyện, nhưng tôi đã lựa chọn thể loại trường ca, bởi cảm hứng anh hùng ca về Đồng Lộc đã xâm chiếm hồn tôi.
Trường ca có thể có cốt truyện (tự sự) hoặc không có cốt truyện (trữ tình), nhưng tôi đã kết cấu trường ca đan xen tự sự và trữ tình. Câu chuyện tình yêu do tôi hư cấu nên cũng là chuyện phổ biến của thanh niên thời chống Mỹ: Chàng trai đi lính vào chiến trường, cô gái ở hậu phương sản xuất và chiến đấu. Nhưng cô gái trong trường ca này lại là thanh niên xung phong, tham gia chiến đấu ngay dưới mưa bom bão đạn của quân thù, và chàng trai là một người lính lái xe vận tải chở hàng vào tiền tuyến. Họ xa nhau mà vẫn gặp nhau dọc con đường đầy hy sinh ác liệt của dân tộc. Tôi chọn tên cô gái là La như biểu tượng sông La của Hà Tĩnh (mà trong đó cô gái họ La – La Thị Tám – luôn ám ảnh tôi khi nhớ về Đồng Lộc), tên chàng trai là Mùa, một cái tên điển hình của người lính xuất thân từ nông thôn. Thông qua hai nhân vật này, tôi muốn làm hiện lên thân phận và tâm trạng của người công dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Trong trường ca này còn có những nhân vật khác như Mười cô gái thanh niên xung phong, những đứa trẻ tìm bê, Nhân Dân, mười cây bạch đàn, v.v… nhằm chống lại những thế lực đen tối đứng đầu là tổng thống Giôn-xơn và những quả bom. Nhưng dù câu chuyện có hư cấu thì Sự Thật tinh thần của thời kháng chiến ở Ngã Ba Đồng Lộc luôn được trân trọng, đúng như lời mở đầu trường ca tôi đã tuyên ngôn:
Vâng, dù là “con búp bê vàng”, vàng ròng đi nữa, thì cũng chỉ là một phiên bản của con người mà thôi!
Và TRƯỜNG CA ĐỒNG LỘC đã được khởi bút từ tháng 1.1978. Khi tôi đang viết những chương đầu thì Trại sáng tác có chương trình đi thâm nhập thực tế. Tôi không chọn về Hà Tĩnh mà chọn đi theo một Sư đoàn quân tình nguyện Việt Nam sang Lào, nơi tiếng súng “hậu chiến tranh” vẫn còn chưa dứt. Lại những tháng ngày sống cùng những người lính luôn cặp kè khẩu súng bên mình sẵn sàng chiến đấu với “phỉ” Vàng Pao. Những ngã đường rừng núi đầy bom mìn cạm bẫy bên cạnh những phố phường tưng bừng lăm vông lễ hội. Có những chuyến đi về những điểm ác liệt, ông anh tôi là ChínhNhờ thế mà tôi luôn giữ được cảm xúc chân thật và liền mạch suốt thời gian mấy tháng liền khi viết trường ca này. Có thể nói là mỗi khi viết, tôi thực sự sống lại thời chiến tranh mà mình đã trải qua. Và có khác chăng là sau mỗi hiện thực được miêu tả là cái nhìn chiêm nghiệm khái quát:
Thật bất ngờ, gần đây tôi vào Vũng Tàu ngồi uống rượu với nhà thơ Tùng Bách người Hương Sơn, bỗng anh nhắc lại câu thơ “phá và xây ngày tháng đỡ đần nhau” thật tâm đắc, khiến tôi xúc động đến ngỡ ngàng về những câu thơ giản dị viết từ 30 năm trước vẫn còn lưu lại trong lòng bạn đọc một thời.
Những chương viết mệt nhất là viết về sự ác liệt của chiến tranh. Viết về kẻ thù càng thâm hiểm tàn bạo bao nhiêu thì viết về sự chống trả của những con người kháng chiến càng hào hùng và bi tráng bấy nhiêu. Tôi đã chọn những chủ đề tương phản để thể hiện tính chất ác liệt của chuộc chiến diễn ra tại Đồng Lộc cũng như cuộc chiến tranh đất đối không những tháng năm Mỹ ném bom miền Bắc. Chiến sách tấn công “cuống xoong Khu Bốn”của tổng thống Mỹ và lòng quả cảm yêu đời yêu nước của những cô gái trẻ. Sự tàn bạo của đạn bom và những đứa trẻ ngây thơ tìm bê lạc ngay trên vùng bom chờ nổ. Và cuối cùng là đau thương và chiến thắng của những con người yêu nước. Tôi đã dành trọn chương “Độc thoại của máu” để viết về sự hy sinh vĩ đại của những người chiến đấu cho Tổ quốc.
Cuộc chiến đấu ấy là cuộc chiến đấu chấp nhận hy sinh cho thắng lợi cuối cùng. Tôi dồn bút vào chương “Đỉnh cao” viết về sự hy sinh của Mười cô gái Anh hùng, và cuối cùng phải buông một câu đầy tính lãng mạn như là an ủi cho chính mình:
Và nhận ra sức mạnh cùng lòng nhân hậu vô bờ của Nhân Dân những ngày kháng chiến:
Sau chuyến đi Lào về lại Hà Nội, tôi ngồi viết chương kết thúc trường ca. Tôi muốn đặt cho trường ca này một cái tên thật ấn tượng, nhưng không có cái tên nào ưng ý hơn cái tên tôi đã viết ra từ ban đầu: CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG VÌ SAO hay TRƯỜNG CA ĐỒNG LỘC. Vâng, những con người xả thân cứu nước mà cụ thể là những con người xuất hiện trên Ngã Ba Đồng Lộc những năm sống chết ấy, họ chính là những vì sao sáng của đất nước, những vì sao đã làm nên con đường sáng, con đường đi tới thống nhất non sông thân yêu của chúng ta. Nhà thơ Chế Lan Viên đọc bản thảo của tôi, ông tán thành với cái tên ấy, nhưng ông bảo tôi nên bỏ chữ “hay” mà thêm vào dấu ngoặc đơn cho bốn chữ sau: TRƯỜNG CA ĐỒNG LỘC. Tôi đã làm theo ý ông, và nhà thơ Tú Sót – Chu Thành (biên tập viên nhà xuất bản Thanh Niên) đã nhận làm “bà đỡ” cho cuốn sách này tới tay bạn đọc.
Sau khi cuốn trường ca này được phát hành, tôi nhận được nhiều niềm vui từ các bạn yêu thơ, đặc biệt là những người lính trên biên cương những ngày “chiến tranh biên giới”. Đầu tháng 7 năm nay, nhà thơ Mai Nam Thắng làm báo Quân Đội bỗng điện cho tôi nhắc lại cuốn Trường ca Đồng Lộc và đề nghị tôi viết hồi ức về trường ca này cho báo. Và trong cuộc họp báo công bố Lễ hội 40 năm Đồng Lộc, nhiều bạn bè đề nghị tôi tái bản cuốn sách 30 năm trước. Thật vui khi tôi nói điều này, các anh Nguyễn Đình Phú (sở Thông tin Truyền thông), anh Đức Ban, anh Hồng Hải (Sở Văn hóa Thể thao Du lịch) và đặc biệt là chị Phạm Thanh Ngà (TGĐ công ty CPĐTTM Đông Dương) cùng nhà văn Đoàn Tử Huyến (GĐ Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây) sẵn sàng in lại cuốn sách này.
** *
Năm 1998, cùng đoàn Nhạc sĩ Việt Nam thăm lại Ngã Ba Đồng Lộc, tôi cứ đứng trào nước mắt rất lâu trước khu mộ Mười cô gái Anh hùng. Mọi người đã đi hết, tôi vẫn còn đứng lại sau tấm bia lớn ghi tên Mười cô gái. Không làm sao lau khô được dòng nước mắt. Phải chăng tôi quá yếu mềm? Có lẽ không phải thế. Có một điều gì đó thật sâu xa từ những thân phận bi tráng này đã xúc động sâu thẳm lòng tôi. Và đêm đó tôi đã viết đươc ca khúc Đồng Lộc thông ru như một tiếng gọi hồn, một sự nhập hồn.
Tôi hiểu ra rằng, quá khứ đầy bi tráng đã biến thành máu thịt trong mỗi con người hôm nay khi trở về với Ngã Ba Đồng Lộc. Và cuốn trường ca nhỏ của tôi được tái bản lần này, hy vọng được đồng hành cùng bạn đọc khi trở về với Đồng Lộc linh thiêng.
CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG VÌ SAO
(Trường ca Đồng Lộc)
KHÚC HÁT TẶNG
CHƯƠNG MỘT: HAI NGƯỜI YÊU CHIA TAY
CHƯƠNG HAI: NGÃ BA
CHƯƠNG BA: QUANH THÁNG BA 1968
CHƯƠNG BỐN: HAI NGƯỜI YÊU GẶP LẠI
CHƯƠNG NĂM: ĐÀN BÊ VÀ TRẺ NHỎ
CHƯƠNG SÁU: ĐỘC THOẠI CỦA MÁU
CHƯƠNG BẢY: ỐNG NHÒM VÀ ĐÔI MẮT
CHƯƠNG TÁM: ĐỈNH CAO
CHƯƠNG CHÍN: KHÚC HÁT MƯỜI CÂY XANH
CHƯƠNG MƯỜI: THAY CHO VĨ THANH
Không đùa đâu, thơ tôi nói thật lòng
trước niềm đau, trước niềm vui có lẽ nào dối trá
(thật kinh tởm sau cơn đau trở dạ
lại sinh ra một con búp bê vàng!)
Tôi sống ở đây từ thuở ngọn đồi xanh
những người nông dân lên đồi cắt cỏ
gánh cỏ đầy đứng nhìn phía hoàng hôn
và họ nói với nhau: phía ấy dãy Giăng Màn
phía ấy núi non thâm nghiêm, sừng sững
rồi họ quay về phía biển
nhìn sóng ngoạm cánh đồng
những cánh đồng gió thổi quắt quay
con suối hẹp xoáy bờ vực thẳm
tôi sống ở đây những ngày lửa bỏng
khi con đường chiến lược vắt qua đồi
cuối những năm sáu mươi
từ phía biển, bom ném vào Tổ quốc
bom ném vào ngọn đồi căng phồng vòm ngực
bom không ngừng không dứt
bom ném vào tuổi trẻ của tôi…Tuổi trẻ của tôi
mười tám, hai mươi
trong và tinh khiết như nước suối đá
khỏe và mơn mởn như mầm lá
rộng và dài như mơ ước, yêu thương
vươn lên và bền vững như con đường
gắn vào đất, tạc vào mặt đất
Tuổi trẻ như sao trời mát mắt
khi yên bình hạnh phúc ngước nhìn lên
và cháy bùng như lửa thiêng liêng
khi giặc giã đụng vào bờ cõi
dẫu rụng xuống, vẫn chói lên lần cuối
gọi dậy những lớp người
dẫu rụng xuống, bầu trời không trống trải
trong mắt người sao vẫn mọc khôn nguôi…Tuổi trẻ ơi
xin nhận ở thơ tôi
khúc hát thầm của cỏ
nếu không may bạn gặp lời cau có
xin đừng buồn
xin bạn đừng buồn
ấy là lúc tôi đang tìm cách kể
cho bạn nghe cảm động dễ dàng hơn
như cô gái mở đường đứng trước bãi bom
một thoáng cau mày
cho con đường sống lại
trên Đồng Lộc những năm gay cấn ấy
ngày yên bình tôi cùng bạn về thăm…
CHƯƠNG MỘT
HAI NGƯỜI YÊU CHIA TAY
Hai người yêu nhau đi về phía đầu làng
trăng mười sáu theo đi lặng lẽ
khi trăng khuất sau ngọn tre cắm cúi
khi trăng ngồi nghỉ ngơi một chút
trên mái tranh xóm nghèo
và ánh trăng cứ lặng lẽ nhìn theo
hai người yêu nhau đi bên nhau, đi mãi…
Cô gái áo nâu vai tròn gió thổi
ngực căng đầy hồi hộp ánh trăng
tóc chàng trai dính chút bùn non
sau buổi cày bừa đồng chiêm vội vãỞ xa kia dòng sông La giũ lụa
ở xa kia dải Trường Sơn tím mờ
ở xa kia sóng biển húc vào bờ
ở xa kia… nhập nhòe pháo sáng
những con đường trườn trên mặt đất
những chuyến xe trườn trên mặt đất
những đoàn quân như hàng cây chuyển động
về hướng Nam
lặng im
lầm lũi…
Hai người yêu nhau vẫn chưa ai chịu nói
dù một lời rất khẽ, rất xa mờ
dường như họ nén lặng để nghe
từng tiếng động trong đất đai xóm mạc
từng tiếng động không thể nào đánh mất
trên con đường họ đi đến ngày mai…
Trăng quan tâm đến nhịp thở hai người
trăng bước chậm cho đêm không ngắn lại
cái xóm nghèo sao mà im ắng vậy
cây đa già hôm qua đâu rồi?
trăng rùng mình ngỡ vừa đánh rơi
vùng bóng mát trăng dành cho chú Cuội
(ngày hôm qua, trước khi trời tối
những quả bom đã xô xuống xóm nghèo!)
Hai người yêu nhau dừng lại tự lúc nào
trên thảm cỏ những chú bê thường đến
hai cặp mắt nhìn nhau trìu mến
hai cặp mắt quyện hòa ánh sáng
ngỡ chưa bao giờ như thế lúc nhìn nhau
trăng thẹn thùng không biết nấp vào đâu
bỗng một đám mây nhởn nhơ bay đến
trăng lơ đãng cho vòng tay nồng ấm
chàng trai ôm cô gái vào lòng…Có cái gì như một cái hôn nồng
gió thoảng hương hoa lúa
hai người yêu nhau như chẳng hề biết sợ
– ngày mai
ngày mai mỗi người mỗi ngả
đi vào cuộc chiến tranh…
Đến bây giờ, hai người vẫn lặng im
nói mà làm chi khi chưa cần phải nói
cứ im vậy cho trái tim tuổi trẻ
đập nhịp tình yêu có thật của mình
ôi hạnh phúc như cười như khóc
chỉ còn nhau trong mắt ướt lung linh!…
Trên thảm cỏ xanh trăng trải lụa vàng
họ ngồi xuống như không về nhà nữa
họ ngồi xuống như quên sương gió
– ngày mai
ngày mai mỗi người mỗi ngả
đi vào cuộc chiến tranh!
Chàng trai vô tình hái một ngọn cỏ xanh
đặt vào lòng tay cô gái
cô cười mỉm và buột thành tiếng nói:
“- ngày mai chúng mình mặc áo cỏ xanh!”
“ngày mai chúng mình mặc áo cỏ xanh”
chàng trai nhắc lại lời cô gái
như đọc một câu thơ láy lại
trong bài thơ không chút êm đềm
trong đêm cỏ mềm
tình yêu và xa cách.Ngày mai
ngày mai chàng trai thành người lính
đường người lính – đường ra mặt trận
bàn tay người lính – bàn tay cầm súng
trái tim người lính – chọi cùng đạn bom
chọi cùng lưỡi lê
súng đạn mặt kẻ thù…
sẽ chẳng thành người lính bao giờ
nếu từ nan cái chết
đất nước những người sợ chết
chẳng bao giờ đất nước sống bình an!
Sau nụ cười, cô gái nghĩ miên man
về đất nước, tình yêu
và bỗng lạ trước bao điều mới mẻ
nếu không có cuộc chia tay như thế
biết bao giờ, biết đến bao giờ
cô nhận mặt những suy tư khao khát
cô nhận mặt những vui, buồn, day dứtcủa lòng mình
mà không thể, không ai có thể
mang đến cho, hay đến mách lại giùm!
Ấy là năm
không chỉ máu miền Nam đổ xuống đất miền Nam
không chỉ máu miền Bắc đổ xuống đất miền Nam
chiến tranh như gió dữ phừng phừng
tràn qua vĩ tuyến
máu miền Bắc đã nhuộm bầm đất Bắc
vẫn âm thầm dành dụm
vẫn âm thầm dồn máu xuống phương Nam…
Ấy là năm
cả dân tộc mình mặc áo cỏ xanh
mặc tự nguyện, mặc không lựa chọn
những lứa đôi ở hai đầu tiếng súng
chỉ mình hiểu lòng mình ngày tháng đợi chờ nhau.Ấy là năm
dải đất hẹp miền Trung
như quãng hẹp một dòng sông chảy xiết
bom kẻ thù vung vãi nơi đây
ba giờ chiều: bom cắt đường số Một
ba giờ mười lăm phút: thông xe
bốn giờ chiều: bom cắt đường số Một
bốn giờ mười hai phút: thông xe
năm giờ chiều
rồi tám, chín giờ đêm
cuộc hành quân san sang đường chiến lược
những con đường đi cứu nước
đích gặp nhau ở phía có quân thù.“- Em nghĩ gì trong đêm chia ly
mà anh hỏi, em không nghe thấy?”
cô gái giật mình ngước cặp mắt ráo khô
nhìn vào mắt người yêu
như nói hết bao điều cô chợt nghĩ
chàng trai hiểu, và anh không hỏi nữa
Nguyển Trọng Tạo Blog