Di tích - Thắng cảnh

Hà Tĩnh: Nghĩa trang Nầm – Những “nốt lặng” gieo vào năm tháng

Hơn hai thập kỷ qua Nghĩa trang Nầm (huyện Hương Sơn), nằm dưới chân núi Nầm lịch sử đã đón nhiều liệt sĩ từ muôn phương về đây an nghỉ.

Rợp bóng xanh trên mộ chí :

Khu đất đồi thoai thoải rộng hơn ba héc ta, giống như hình con rùa nằm dưới ngọn núi Nầm uy nghi, sừng sững. Phía trước mặt là dòng sông Ngàn Phố uốn hình cánh cung đổ về bến Tam Soa, phía sau lưng rừng thông xanh trùng trùng điệp điệp. Khu đồi ấy chính là nghĩa trang Nầm, vùng giáp ranh hai xã Sơn Châu và Sơn Thủy ( huyện Hương Sơn ) hiện đã quy tập được 1121 liệt sĩ hy sinh từ chiến trường chiến trường gần tới chiến trường xa, về đây an nghỉ. Số liệt sĩ được tập hợp tại đây, nhiều nhất vẫn là những bộ đội, cán bộ chiến đấu hy sinh trên đất bạn Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.


hatinh24hChị Lê Thị Nhung trưởng phòng LĐ-TB XH Hương Sơn, thống kê cho tôi biết : “Kể từ năm 1999, sau khi nghĩa trang Nầm được khánh thành, không có năm nào nghĩa trang Nầm không đón những linh hồn thiêng về đây. Nhiều cuộc tiễn đưa đưa hài cốt đầy nước mắt cả nhân dân hai nước Việt – Lào”. Chị Nhung vừa nói, vừa trao cho tôi bản thống kê rành rọt, chi tiết tháng ngày những đợt quy tập đầy nghĩa cử ấy.
“Uống nước nhớ nguồn, lo “mồ yên mả đẹp” cho người đã khuất, đó không chỉ là đạo lý ngàn đời của dân tộc Việt Nam, đây còn là trách nhiệm lớn của người đang sống. Năm nào cũng vậy, lực lượng Bộ đội quân khu 4, Tỉnh đội Hà Tĩnh phối hợp với các cơ quan chức năng, Huyện ủy và UBND huyện Hương Sơn tổ chức đội quân đi tìm hài cốt liệt sĩ, đưa về mai táng tại nghĩa trang Nầm vẹn tròn, chu đáo”. Ông Lê Đức Hùng, Phó chủ tịch UBND huyện Hương Sơn, người đã thắp nén nhang tri ân trước linh hồn mộ chí không biết bao nhiêu lần, thành tâm chia sẽ với tôi điều này.

Bất giác nước mắt tôi mặn chát và nhỏ vào trang giấy : “Ba ngôi mộ chôn tập thể được đội quy tập phát hiện tại Lào: Ngôi mộ thứ nhất thứ nhất 73 người, ngôi mộ thứ hai 10, ngôi mộ thứ ba 9 người “. Quả thực tôi chưa hiểu hết những người lính ra đi vĩnh viễn ấy, hy sinh trong trường hợp pháo kích hay bom rơi trúng hầm. Chỉ biết rằng họ hy sinh tuổi đời còn rất trẻ và chết trong tư thế ngẩng đầu cao, đứng thẳng như cây săng lẻ giữa rừng Lào. Dầu “Không một bóng hình, không một dòng địa chỉ “, nhưng còn kia đôi dép cao su, tấm vải dù, chiếc bi đông đựng nước gắn với cuộc đời người chiến sĩ, được xếp lại ngay ngắn trong di hài, đủ nhắc nhở với thế hệ hôm nay và mai sau rằng: Vì ai ta chiến đấu, vì ai ta hiến máu ?.

Chiến tranh. Dẫu người lính hy sinh ở chiến trường hay nơi bãi tập, dọc đường hành quân, mỗi số phận đều đồng hành cùng với sứ mệnh thiêng liêng của dân tộc. Ông Lê Đức Hùng “thông tin nóng” cho tôi : cách đây hơn một tuần lễ, cấp ủy, chính quyền huyện Hương Sơn phối hợp với cấp ủy chính quyền xã Sơn Thịnh đã tổ chức cất bốc hài cốt một liệt sĩ vô danh đưa về mai táng tại nghĩa trang Nầm. Người lính ấy hy sinh trong một đêm hành quân qua bến đò Choi, bị máy bay giặc Mỹ bắn thủng ngực, ngay khi vừa rời khỏi con đò. Người lính vô danh hy sinh vào khoảng tháng 5/1966. Đêm ấy chính ông Mậu (thôn Thịnh Văn) đã cùng đồng đội anh, chôn cất anh trong chiếc “quan tài” người dân hiến tặng và đắp ngôi mộ đất cho người lính trẻ. Rồi đơn vị vội vã ra chiến trường, không kịp nói lại cho dân làng biết “chú ấy tên gì, quê ở đâu “.

Mấy thập kỷ đi qua, không biết bao nhiêu mùa xuân cỏ mọc xanh rì trên nấm đất sè sè ấy, ông Mậu vẫn một mình xách ven, cuốc ra tôn tạo ngôi mộ, thắp hương khấn nguyện cho anh an lành nơi ” chín suối”. Rồi ông Mậu cũng trở thành người thiên cổ. Trước lúc mất, ông có dặn anh Bính người con trai cả của mình “nhớ bảo vệ và chăm sóc hương khói cho nấm mồ liệt sĩ vô danh này”. Anh Bính đã thực hiện đúng di nguyện của người cha. Ngày 7/7/2016, hàng trăm người dân đứng chật hai bên đường liên hương, ngậm ngùi đưa hài cốt người lính trẻ vô danh về nơi yên nghỉ mới. Cuộc tiễn đưa diễn ra trong không khí trang nghiêm và kính cẩn. Đi tháp tùng xe tang hôm ấy có hùng hậu đội kiêu binh, đội quân nhạc “chiêu hồn tử sĩ” và vô số những vòng hoa trắng, hoa hồng phủ đầy mộ chí. Ngôi mộ vô danh được đưa về có thể chưa phải ngôi mộ vô danh cuối cùng, nhưng thi hài anh đã đứng trong hàng ngũ những liệt sĩ vô danh ở nghĩa trang Nầm đã lên tới 469 ngôi mộ. Theo hồ sơ của phòng Lao động – thương xã hội huyện Hương Sơn, năm 2016 đã tiếp tục cất bốc thêm 19 hài cốt các liệt sĩ từ Lào về.

Tháng bảy ở Hương Sơn buổi chiều nắng vẫn đượm đến lạ lùng, nhiều bụi chuối trong vườn đã bị nắng và gió Lào thổi vàng cuống lá. Thế nhưng lạ lùng thay khi tôi đặt chân đến thăm Nghĩa trang Nầm bỗng thấy bốn bề mát rượi. Trước mắt tôi xuất hiện hai con rồng lớn chầu hai bên. Hai con rồng khỏe khoắn đang ở thế bay lên trời xanh, như sức sống bất diệt của các linh hồn liệt sĩ đã nhập vào hồn thiêng sông núi. Đang mùa hoa bằng lăng nở, cả khu nghĩa trang Nầm rợp kín một màu tím, không ít cây bằng lăng trẻ ra hoa sớm, bây giờ đã kết thành những quả tròn chi chít trên cây. Không nghe tiếng ve sầu réo rắt kêu, chỉ nghe dậy lên trong bóng lá tiếng chim gọi bạn. Những dòng suối âm thanh tiếng chim ban chiều, càng làm cho linh hồn người đã khuất thanh thản hơn. Điểu khiến tôi ngạc nhiên, hai cây bằng lăng đứng song song, tán tròn lá dày có hai tổ chim non đang làm tổ trong cành. Dưới gốc bằng lăng: hai mộ chí liệt sĩ Nguyễn Minh Cảnh ( Hà Nội) và liệt sĩ Nguyễn Hồ Khanh ( Nam Hà ). Tôi đọc trên bia mộ biết hai anh hy sinh đều mới mười tám tuổi. Không hiểu hai người ở ” thế giới bên kia” có trở thành bạn “tương tri, tương ngộ” không, mà sao đôi chim làm tổ trên này lại ríu rít với nhau đến vậy?.

Nằm cùng với các liệt sĩ có danh tính còn có thêm mộ chí nhà báo Phạm Hồ, mộ chí của các bậc cách mạng lão thành đảng viên 1930 – 1931 như cụ Nguyễn Xuân Phương, cụ Phạm Như, cụ Trần Xuân ( cả ba cụ đều sinh quán xã Sơn Lệ, Hương Sơn ) và những cô gái thanh niên xung phong đã hy sinh anh dũng trên mặt trận mở đường Trường Sơn thời chống Mỹ.

Gặp người đi viếng mộ :

Trong dòng người thăm viếng mộ tại nghĩa trang Nầm chiều nay, bất chợt tôi gặp ông Trần Đình Quỳnh ( quê xã Sơn Thủy ) đang thắp hương cho người anh trai mình là liệt sĩ Trần Đình Ngoạn. Ông Quỳnh năm nay đã 65 tuổi, râu và tóc đều đã lốm đốm bạc, đứa cháu nội Trần Đình Khanh năm nay đã ngoài 50 tuổi, cả hai chú cháu đều đen và gầy như nhau. Ông Quỳnh bộc bạch : ” Thằng ni khi cha nó đi bộ đội, nó mới lên hai tuổi chưa hình dung nổi mặt cha. Bây giờ nó đã có cháu nội, cháu ngoại rồi. Gia đình tôi cũng đang may mắn, vì anh tôi hy sinh tại đường 9 Khe Sanh, sau bao năm dày công tìm kiếm mới đưa được hài cốt anh về đây…”.

Bổng nén hương đỏ phừng lên, khói hương loang trắng từng vòng quanh mộ chí. Tôi nhìn lên mộ chí, thấy lễ vật bày cúng liệt sĩ Trần Đình Ngoạn khác hơn mọi người. Bên chiếc đĩa nhựa đầy đầy hoa quả, còn có thêm chiếc điếu cày và một gói thuốc Lào ” đang mở” sẵn.. Tôi hỏi ông Quỳnh :

– Ông Ngoạn chắc ngày xưa nghiện thuốc Lào lắm phải không ?

Ông Quỳnh đáp : – Không chỉ anh tôi nghiện mà cả làng tôi nhiều người đều nghiện thuốc Lào và nước chè xanh.

– Riêng tôi còn sống ngày nào thì còn thờ anh thuốc Lào ngày đó vì lý do khác nữa ?

– Lý do gì vậy?.

Ông Quỳnh rân rấn nước mắt xúc động :

– Hồi ấy tôi mới lên mười tuổi, đang nhỏ dại chưa biết gì, nghe tin anh Ngoạn đi tôi mừng lắm cứ ôm lấy cổ anh và dặn : – Khi mô anh vào chiến trường, được phát đồ áo mới thì anh để lại bộ đồ áo cũ cho em để em mặc nhé.

Anh Ngoạn xoa đầu tôi rồi dỗ dành : – Em cứ yên tâm chịu khó học cho giỏi đi, ở nhà nhớ cắt cỏ chăm con trâu hợp tác xã cho béo. Thế nào huấn luyện xong, anh cũng tìm cách gửi đồ cho em mặc.

Ông Quỳnh còn nhớ như in sáng hôm sau anh Ngoạn đi ( ngày 17/3/ 1965). Bữa ấy anh Ngoạn nói với ông Quỳnh :

– Anh giờ thèm thuốc Lào quá, chú chịu khó chạy sang nhà hàng xóm xin cho anh điều thuốc.

Ông Quỳnh chạy đi xin thuốc cho anh, ông đến nhà ông Nhơn, ông Chương, ông Hường.. nhưng không ai có thuốc Lào cả. Ông Quỳnh tiếp tục đến nhà ông Khương, được ông Khương cho lấy cho một nhúm nhỏ. Quỳnh mừng quá đưa thuốc về cho anh hút. Nhưng về đến nhà, anh Ngoạn đã đi rồi. Quỳnh xuống cây ngô đồng chợ Đình để tìm anh, song không kịp nữa. Đoàn “tân binh” đã lên đường cách đó hai mươi phút. Quỳnh cầm thuốc trở về mách mẹ, hai mẹ con ôm nhau khóc. Sáu tháng sau, một người đồng hương trong đơn vị về thăm nhà, anh Ngoạn giữ đúng lời hứa và gửi cho Quỳnh một bộ đồ quân phục màu tô châu để Quỳnh đỡ phải mặc áo vá. Đúng một năm sau, trong một lần lên gác điểm chốt tại Khe Sanh, anh Ngoạn bị một viên đạn địch bắn trúng vào ngực và hy sinh.

Kể tới đây ông Quỳnh lại khóc rưng rức, vì ân hận xin được thuốc Lào về nhưng quá muộn, nên anh mình không được hút điếu thuốc trước lúc lên đường.

Lặng đi một hồi lâu, ông Quỳnh nói :

– Hình như anh tôi đã thấu hiểu lòng tôi, nên đã về lại nghĩa trang Nầm để tôi vơi đi nổi buồn quá khứ và cũng thỏa nguyện cho mẹ tôi trước lúc mất.

Chuyện người quản trang :

Khi tôi bước lên tượng đài ” Tổ quốc ghi công” thì gặp một người đàn ông dáng người cao mảnh, khuôn mặt nhân từ đang lúi húi gom từng “vỏ bao hương” rơi vương vãi dưới chân tượng đài. Chưa hết, ông lấy một chiếc chổi nhỏ quét đi quét lại từng tàn tro nhang rơi dày đặc dưới chiếc lư đồng. Người đàn ông tên là Trần Văn Học, làm nhiệm vụ quản trang đã hơn 5 năm nay. Một công việc lặng thầm nhưng ngày nào, ông Học cũng như con ong chăm chỉ. Mặc dầu tiền công thù lao cho người chăm sóc bảo vệ nghĩa trang này mỗi tháng chỉ khiêm tốn 2 triệu đồng. Vốn là một người lính cũ trở về, ông Học xem việc chăm sóc nghĩa trang là chăm sóc đồng đội mình, bởi mình được sống còn may mắn, đồng đội hy sinh thiệt thòi lắm.

Nghe ông tâm sự, tôi cũng thấy lạ bởi trước đây người chú ruột của ông Học là ông Trần Văn Sở cũng có “thâm niên” làm nghề quản trang Nầm tới 11 năm. Sau khi ông Sở tuổi cao, sức yếu ông Sở xin phép phòng Lao động – thương binh Hương Sơn nghỉ việc, giới thiệu đứa cháu ruột tiếp tục ” nối nghiệp” mình. Khi nguyện vọng bàn giao ” người thừa kế” được phòng LĐ- TB Hương Sơn chấp nhận, kể từ tháng 4/2011, hầu như mọi công việc đồng áng ông Học đều phó thác vợ con. Ông Học bảo : ” Tui có thuận lợi hơn trong công việc hàng ngày là nhà tôi ở gần khu vực nghĩa trang. Vì thế, khách đến thăm không bao giờ phải chờ lâu trước cổng. Nhiều bữa trời mưa rét, khách ở xa đến thăm mộ người thân, tôi mời họ vào nhà tôi nghỉ luôn. Mai dẫn họ ra đón xe khách về “.

Ông Học thủ thỉ : ” Đừng tưởng nghề quản trang một mình một bóng, đây là nơi giao lưu đông đảo mọi người, nhất là những ngày lễ tết có khi mình phải đón đến hàng trăm lượt khách…”.

Khách vào rồi khách ra, ông Học hết dẫn khách lên tượng đài thắp hương rồi lại dẫn họ đến từng vị trí mộ chí người thân của mình. Có hôm gió trời thổi mạnh quá, khách “bật lửa” thắp hương mãi không cháy. Ông Học phải dùng chiếc mũ cối của mình rồi cúi gập người sát đất để thắp lửa hộ khách. Đợi hương cháy hết và khách làm lễ xong, ông Học mới rời chỗ. Nhiều hôm vì vận động lên xuống quá nhiều, đêm ngủ hai đầu gối mỏi nhừ.. Nhưng sớm mai ông Học vẫn vui vẻ tiếp tục ” lịch trình một ngày mới” của mình.

Tôi hỏi ông Học : – Hàng tuần huyện đoàn Hương Sơn giao nhiệm vụ cho đoàn viên trường THPT Lê Hữu Trác tham gia quét dọn nghĩa trang, nên bác không bận tâm với việc này lắm chứ.

Ông Học cười : – Ồ việc tổng vệ sinh là việc của tuổi trẻ, nhưng chuyện dọn dẹp ở đây tui có khi mô ngơi tay đâu chú. Nghĩa trang này cây nhiều, nên lá thường xuyên rụng xuống, lại còn túi ni long, võ bao hương, chai lọ.. nhan nhản. Tính ra mỗi ngày tôi phải thu gom tới 3 tạ- 4 tạ rác.

Tôi tin lời ông Học nói đúng sự thật. Bởi không có ông, nghĩa trang làm sao sạch đẹp và thâm nghiêm tới thế..

7/2017

Phan Thế Cải

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP