Địa Chí Hà Tĩnh

Người Mã Liềng dưới chân núi Kà Đay – Hương Khê

Cách đây mấy chục năm, có một tộc người sống biệt lập trong các cánh rừng hoang rậm dưới chân núi Kà Đay. Tất thảy già trẻ, lớn bé đều quấn khố bằng vỏ cây, sống đu bám vào vách đá, săn bắt, hái lượm chả khác gì thời nguyên thủy.

Đến khi được chính quyền địa phương phát hiện, họ đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và đã được đưa về với “thế giới văn minh”. Tộc người bé nhỏ ấy có tên gọi Mã Liềng, hay là Mơ Leng, tên của một loài đại bàng trên núi đá.


Tộc người đến từ “thời nguyên thủy”


Tuy được coi là một bộ phận thuộc nhóm dân tộc Chứt, cùng với người Sách, Rục, Arem, Mày (phân loại Dân tộc học – NXB Văn hoá Dân tộc – 1994) song hiện nay, tộc người Mã Liềng chỉ còn khoảng 1.200 người. Cuộc sống của họ có nhiều nét văn hoá và cấu trúc xã hội tương đối đặc sắc. Họ có niềm tin vào thần rừng, ma tổ tiên, thầy cúng được xem là người có thể truyền đạt nhu cầu của người dân với thần linh; già làng là người đứng đầu, quyết định mọi hoạt động của bản.


Trước đó, người Mã Liềng (hay gọi là người Chứt) đã có ước mơ vượt dãy Giăng Màn từ lâu lắm rồi. Từ khi những đứa trẻ sinh ra trong hang núi, gọi nhau bằng tên các loài cây rừng và đều có chung họ Nai – tên của loài vật hiền lành, dễ thương và có cùng kiếp sống lầm lũi như dân bản. Vượt núi là vượt ra khỏi lời nguyền trong hang đá để thấy được ánh mặt trời, lên được vùng đất của Giàng để có cơm no, áo mặc và được sống sung túc, an vui. Nhưng bao đời nay, người già trong bản đã bảo rằng khó lắm, lời nguyền đã định rồi, dân tộc Chứt đời này qua đời khác phải khổ như con dúi trên rừng ấy. Thế nên tiếng đàn Trơbon mới nghèn nghẹt, nấc lên như tiếng khóc.



Những đứa trẻ này giờ đã không còn hoảng sợ khi gặp người lạ


Những suy nghĩ ăn sâu vào dân bản là vậy nhưng Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh lại nghĩ khác. Bộ đội khẳng định rằng, người Chứt đã vượt biết bao nhiêu ngọn núi, bao nhiêu quả đồi mà có đến được vùng đất của Giàng đâu? Mặc dù để thay đổi tư duy bao đời nay của người Chứt là điều không hề dễ nhưng những cán bộ chiến sỹ mang quân hàm xanh đã bám rừng, bám bản, âm thầm đưa từng con chữ, nếp nghĩ, cách làm, ươm mầm cho sự hồi sinh, ghi danh tộc người Chứt vào cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Và, họ đã biết lao động chăm chỉ, biết học cái chữ Bác Hồ, lấy họ Bác Hồ và sống định canh, định cư để mong vượt qua được cái định mệnh nghèo đói, bệnh tật đeo đẳng.


Năm 1967, cấp ủy, chính quyền huyện Hương Khê phối hợp với lực lượng Công an vũ trang Hà Tĩnh đưa được 8 hộ về Bản Giàng 2 của xã Hương Vĩnh cư trú. Mặc dù được ổn định chỗ ở nhưng với thói quen bấy lâu nay, mùa nắng bà con vẫn lũ lượt kéo nhau vào rừng, mùa mưa mới chịu quay về bản. Ấy là chưa kể do hủ tục lạc hậu, người Chứt còn mâu thuẫn, không thể hòa nhập với một số tộc người bản địa. Và một lần nữa, năm 1976, chính quyền địa phương đã đưa bà con về định cư tại bản Rào Tre (xã Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh).


Sau khi “Dự án phát triển kinh tế xã hội dân tộc miền núi” được triển khai vào tháng 6-2001, tổ công tác cắm bản Rào Tre của BĐBP Hà Tĩnh được thành lập. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt hết sức quan trọng, đó là Bộ đội Biên phòng chính thức đứng ra đùm bọc, cưu mang dân bản. Được sự chở che, thương yêu từ nhiều phía, sự nỗ lực dạy chữ của các chiến sỹ biên phòng, các thầy cô giáo cắm bản nên gần đây, 30 hộ dân với 118 nhân khẩu người Chứt ở Rào Tre đều biết nói tiếng Kinh, trong đó hơn một nửa đồng bào biết chữ.


Những con người “cõng” ước mơ “vượt núi”


Thành quả đạt được là hết sức lớn lao, nhưng phải khẳng định rằng con đường gieo chữ cho người Chứt không hề đơn giản. Ở Rào Tre có một sự ngược đời là học sinh không bao giờ vào lớp trước cô giáo và thay vì phải nộp học phí cho nhà trường thì mỗi đứa trẻ đi học, quỹ học bổng Vừ A Dính còn cấp cho 520.000 đồng/tháng. Cô giáo chẳng khác gì người mẹ, chăm chút cho các em từng miếng ăn, giấc ngủ, lo cho các em từ cây bút, tập vở…


Nhiều chiến sỹ, cán bộ Đồn Biên phòng 575 đều xác định được tư tưởng “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”. Do vậy, anh em luôn nhiệt tình đến từng nhà, gặp từng người để tuyên truyền vận động họ đến học chữ. Vận động được rồi, lại phải mày mò nghiên cứu tìm ra phương pháp để làm sao đưa chữ đến từng đối tượng cho phù hợp.


Nói như vậy để thấy được rằng, trong sự lớn khôn của mỗi đứa trẻ người Chứt, trong mỗi bàn tay trẻ viết lên trang giấy trắng những dòng chữ đầu tiên, nói những câu tiếng Việt đầu tiên đều chứa đựng biết bao tâm huyết, sức lực của những bậc “cha mẹ” người Kinh đã tận tụy hết lòng. Một thế hệ mới của người Chứt đã và đang lớn dần lên dưới sự che chở, vun xới của cả cộng đồng.


Vượt qua bao núi cao, thác dữ, bao định mệnh đeo đẳng ngàn đời với sự nỗ lực hết mình từ nhiều phía, giờ đây 100% con em người Chứt ở Rào Tre trong độ tuổi đến trường đều được đi học. Do có sự phối hợp giữa trường Dân tộc nội trú với Bộ đội biên phòng, đặc biệt là Đồn 575 đã vận động đưa đón các em đi học, đến nay, số lượng học sinh dân tộc Chứt học tại trường có lúc lên tới gần 30 em. Các em đều thực hiện đầy đủ nội quy của nhà trường, nhiều em đã trở thành những cán bộ, những sinh viên các trường Đại học và có nhiều em đang học tại trường đạt kết quả tốt.



Một góc lớp học ở Rào Tre


Bản Rào Tre lúc này yên bình và mộc mạc như bất cứ những bản làng khác trên dải đất biên cương của Tổ quốc. Dưới chân ngọn núi Ka Đay, những con người vốn chỉ quen sống trong hang đá, lang thang từ cánh rừng này sang ngọn núi khác đã biết thành lập, xây dựng Chi bộ Đảng, biết trồng lúa nước, cây ăn quả, cây hoa màu kết hợp phát triển chăn nuôi để bữa ăn thêm no, đêm ngủ thêm ấm và nhất là con em được đến trường.


Ngày lại ngày, mặt trời vẫn chiếu sáng trên đỉnh Kà Đay, mang ánh sáng chan hòa soi xuống dòng Rào Tre, thắp sáng ước mơ vượt núi của đồng bào Chứt. Ngày lại ngày, người Chứt vẫn cần mẫn sớm tối trên nương. Dẫu họ chưa lên được vùng đất của Giàng nhưng cuộc sống hôm nay đã no ấm, yên vui… hòa vào nhịp sống mới của cộng đồng Người Việt. Và, tiếng đàn Trơbon dường như cũng vang hơn, mỗi buổi sáng, những đứa trẻ người Chứt vui chân sáo tới trường, mang trên vai giấc mơ “vượt núi”.


Nguyễn Trung Thành

Công Lý

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP