Gần 40 năm sau ngày giải phóng, câu chuyện bí ẩn về hai chiếc ngà voi mới được hé mở qua lời kể của một người đã trực tiếp chỉ huy vụ giết voi lấy ngà.
Cuộc tàn sát kinh hoàng
Theo người kể, cặp ngà voi được đặt trang trọng trong phòng tiếp khách của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu được coi là biểu tượng quyền lực cho đế chế tại vị của mình. Ngày nay, cặp ngà voi ấy không chỉ là hiện vật lịch sử gắn liền với cuộc chiến tranh ác liệt mà nó còn là vật chứng đẫm máu của vụ tàn sát 20 thổ dân vô tội trong khu rừng sâu ở hạ Lào để chiếm đoạt ngà voi.
Đầu năm 1971, tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 54, Sư đoàn 1 bộ binh, đóng tại Thừa Thiên – Huế được lệnh tập kết tại Khe Sanh, qua vùng Lao Bảo và tiến sang đất Lào.
Trên đường tiến quân, trung đội đã gặp một đoàn khoảng 20 người dân tộc thiểu số trong đó toàn người già, phụ nữ và trẻ em. Nhóm người này đang đi ngược chiều về xuôi, theo sau là một đàn voi thồ hàng hóa cồng kềnh, trong số đó có con voi đang sở hữu một cặp ngà dài bóng mướt.
Trên lưng voi là một cái bành chứa rất nhiều đồ đạc, có lẽ đoàn người này đang có một chuyến đi dài ngày. Trong số hành trang trên lưng voi còn có một pho tượng nữ thần bằng đồng quý giá mà hiện vẫn chưa ai biết tung tích của nó kể từ khi vụ thảm sát xẩy ra.
Khi nhìn thấy con voi đi đầu có cặp ngà dài đến 1 mét, cao vút, láng bóng, viên sĩ quan chỉ huy trung đội đã nảy ra ý định phải có nó. Lập tức viên sĩ quan không ngần ngại đi đến và đề nghị được mua voi của nhóm người dân tộc này nhằm lấy cặp ngà.
Nhưng hắn không bao giờ biết, đồng bào dân tộc tôn sùng voi còn hơn cả báu vật. Họ xem voi là con vật linh thiêng, từ lâu đã gắn bó mật thiết với con người và voi cũng chính là một “con người” ruột thịt của họ.
Từ bao đời này, mặc dù cuộc sống thiếu ăn, thiếu mặc thì họ cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện bán voi. Trước tình hình ấy, viên sĩ quan liền điện về trung tâm chỉ huy trưởng báo cáo và xin ý kiến của “Đại bàng” – mật danh của thiếu tá Thọ, tiểu đoàn trưởng, là bà con bên vợ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xin chỉ đạo.
“Đại bàng” không cần suy nghĩ, hắn ra lệnh không thương thảo được thì bắn bỏ hết, bằng mọi giá phải lấy được cặp ngà voi đem về cho hắn.
Sau khi nhận được lệnh từ thiếu tá Thọ, viên sĩ quan cố gắng thuyết phục đoàn người nhưng họ tiếp tục từ chối. Trước sự kiên quyết của những thổ dân, viên chỉ huy liền ra lệnh cho lính hạ thủ đoàn người. Sau khi bắn chết 20 thổ dân một cách dã man, chúng giết chết voi và lấy đi cặp ngà quý giá.
Cặp ngà voi và cuộc rượt đuổi trong rừng
Giết người, giết voi xong, trung đội lính cộng hòa tiếp tục hành quân nhưng hai ngày sau đó thì bất ngờ lọt vào vòng vây của bộ đội cách mạng.
Voi là biểu tượng bất khuất của một số đồng bào dân tộc.
Trung đội cộng hòa bị đánh tan tành, bị cắt đứt đội hình và cô lập trên đồi cao. Rơi vào thế bị động, viên sĩ quan chỉ huy đang giữ cặp ngà voi hấp tấp điện về sở chỉ huy xin quân viện trợ để giải cứu trung đội.
Thiếu tá Thọ sợ cặp ngà voi quý bị bom đạn phá hủy trong quá trình chiến đấu nên chỉ âm thầm điều động một tiểu đoàn bộ binh lên núi yểm trợ. Sau một ngày giao tranh ác liệt với quân đội cách mạng, tiểu đoàn chi viện của thiếu tá Thọ cũng không thể dành thế chủ động để mở đường xuống núi.
Nhiều ngày trời ăn dầm nằm dề trốn chui trốn lủi trong rừng sâu, trận chiến đã khiến chúng phải đổi nhiều sinh mạng.
Sau khi thoát khỏi vòng vây về tới Huế, trung đội lính cộng hòa chưa còn đến một nửa. Những tên lính còn sống sót vẫn còn in hằn trên từng nét mặt nỗi hốt hoảng về trận đối đầu với bộ đội Cụ Hồ trong rừng cùng với đó là nỗi lo sợ và sự ám ảnh tội lỗi về vụ thảm sát những người dân vô tội chỉ vì cặp ngà voi.
Nhận được tin cháu vợ gặp lâm nguy, Nguyễn Văn Thiệu nóng lòng điện ngay cho Tư lệnh quân khu 1, vùng 1 phải đưa ra chiến lược cứu Thọ bằng mọi giá.
Lệnh cứu Thọ được ban ra một cách nhanh chóng. Ngay lập tức một trực thăng đặc biệt được điều động xuyên rừng đưa Thọ và một số sĩ quan khác rời trận địa. May mắn thoát chết, trung tá Thọ hoảng sợ muốn rời khỏi vùng hỏa tuyến và muốn tránh xa cặp ngà voi nhuốm máu đã mang đến cho ông ta bao nhiêu là tai họa.
Người ta kể lại, trong thời gian cất giữ cặp ngà voi, trung tá Thọ đã gặp phải không ít rủi ro thậm chí suýt phải bỏ mạng trong rừng sâu. Ông ta hoảng sợ khi nghĩ đến những oan hồn mà ông đã ra lệnh giết để chiếm ngà voi và xác của nhiều quân lính phải chiến đấu đến cùng để bảo vệ ngà voi đã nằm lại nơi rừng thiêng. Những ray rứt, hoảng loạn về tâm lý đeo bám ông ta trong suốt cuộc chiến khiến ông ta luôn sống trong sợ hãi, ông ta tìm mọi cách để được rời khỏi chiến trường ác liệt ấy.
Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc thành một đất nước Việt Nam thống nhất diễn ra tại dinh Độc Lập vào tháng 11/1975, để kỷ niệm, chính phủ lâm thời nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định đổi tên Dinh Độc Lập thành Hội trường Thống Nhất. Nơi này được đặc cách xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Dinh được xây dựng trên diện tích 4.500 m², diện tích sử dụng 20.000 m², gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống.
Hơn 100 căn phòng của Dinh được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng. Dinh cao 26m, tọa lạc trong khuôn viên rộng 12 ha.
Bên ngoài hàng rào phía trước và phía sau Dinh là 2 công viên cây xanh. Giữa những năm 1960, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng).
Lý Thanh
PLVN