Khu di tích có tổ hợp kiến trúc gồm đền Tiên, điện Thánh, miếu Chúa, chùa Tiên. Các công trình kiến trúc gắn với truyền thuyết dân gian, tọa lạc trên diện tích 2ha được bao bọc bởi con đê La Giang, nơi tiếp giáp của sông Lam, sông La, bên cạnh dòng Minh Giang huyền thoại.
“Núi Tiên”- huyền thoại … xuyên thời gian
Cụm quần thể di tích văn hóa Tiên Sơn có vào khoảng đầu thế kỷ XI cùng với chùa Thiên Tượng, Hương Tích, Long Đàm trên đỉnh Ngàn Hống.
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, cùng với những tấm lòng hảo tâm các công trình đã được phục hồi, tôn tạo trên cơ sở yếu tố gốc gồm có Hạ điện, Trung điện, Thượng điện và đền Tiên, miếu Chúa…
Hạ điện là nơi thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các anh hùng dân tộc có công với nước. Trung điện với tín ngưỡng dân gian tục thờ tứ phủ (Địa phủ, Sơn phủ, Thủy phủ, Thiên phủ) và Tam tòa Thánh mẫu…Thượng điện thờ lục vị thánh tổ của dân làng làm nghề gồm có các ông tổ sư của các nghề: Rèn, Đúc, May…
Lễ hội được tổ chức mang đậm truyền thống
Quần thể văn hóa Tiên Sơn là gắn với một thiên truyền thuyết rằng, sau khi đắp lên ngàn Hống, ông Đùng đào gốc cây, đốt than, dùng mũi thay bể thổi lò nung sắt, một tay làm kìm, một tay nắm làm búa, lấy đầu gối làm đe để rèn nông cụ và là người bày dạy cho dân làng luyện quặng, rèn đúc.
Khi vua Tàu lâm bệnh, Ngài được mời sang thăm bệnh, bốc thuốc. Để trả ơn cứu mạng, vua Tàu mở kho báu hậu đãi Ngài. Chín kho đồng đen bỏ vào chưa đầy nửa đẫy mà Ngài mang theo. Tàu, thuyền của vua Tàu không có chiếc nào chở nổi, Ngài cởi nón làm thuyền vượt biển về nước. Số đồng đen mang về, Ngài đúc một quả chuông lớn, khi đánh lên có thể gọi tất cả vàng bạc Trung Hoa chảy về Đại Việt.
Tiếc rằng quả chuông quá nặng đã bị rơi xuống ao. Trước khi về Trời, Ngài dặn sau này nếu gia đình nào sinh được 10 người con trai khoẻ mạnh thì tới kéo chuông lên. Một lần có một gia đình nọ có 10 người con, nhưng trong đó có một người con nuôi, đến kéo. Khi chuông gần lên đến bờ, người mẹ mừng quá kêu lên: “ Nuôi ơi, gắng lên !” thế là cơ gia bị lộ! Quả chuông lại chìm xuống! Chuông không kéo lên được nữa nhưng thiên truyền thuyết đã nói lên một khát vọng độc lập, tự cường của nhân dân ta dưới đêm đen một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Theo nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Thái Kim Đỉnh, Tam quan của đền Thánh có bức hoành “Cửu khố hắc đồng, bán nang vị mãn” (nghĩa là 9 kho đồng đen chưa đầy nửa đẫy) và đôi câu đối: “ Y bát hà niên lưu thạch tích- Oanh thư chung sử thuyết đồng nang” (nghĩa là: áo, bát nhà sư còn in trên đá – Lời truyền xưa còn ghi chuyện chiếc đẫy đựng đồng). Điều kỳ diệu nữa là giếng Tiên nằm cạnh Tam quan, được ví là mắt rồng. Nằm trên sườn núi, giếng không sâu nhưng nước trong vắt ngọt mát, quanh năm không bao giờ cạn.
Đường lên đỉnh núi Tiên
Huyền thoại và lễ hội làng nghề
Vân Chàng và Minh Lang là tên của hai làng cổ nằm dưới chân núi Hồng Lĩnh, tương truyền được lập từ đời Lý (thế kỷ XI), nay là hai phường Đức Thuận và Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh có nghề rèn nổi tiếng. Từ đời này qua đời khác, nghề rèn của làng tiếp tục được duy trì và ngày càng tinh xảo. Nghệ nhân rèn phường Trung Lương đi truyền nghề khắp trong Nam, ngoài Bắc. Sản phẩm rèn phường Trung Lương được người dân trong nước rất ưa chuộng. Tương truyền tổ sư nghề rèn ở đây là ông Đùng. Ông ở trên núi Hồng Lĩnh, thấy dân không có dụng cụ sản xuất, bèn bới đất lấy sắt, nhổ cây rừng đốt thành than rèn các dụng cụ lao động phát cho mọi nhà. Từ đó nhiều người trong vùng đến xin học nghề. Ông vui vẻ truyền nghề lại cho dân làng. Những người học được nghề đầu tiên đã lập nên làng rèn phườngTrung Lương. Về sau dân làng nhớ công đức của ông đã đúc tượng lập đền thờ tại Rú Tiên, nằm ngay giữa làng và gọi là đền thờ ông Thánh Thợ.
Cũng có một cách giải thích khác về sự hình thành của làng nghề qua lời kể của những người già ở phường Trung Lương. Truyện kể rằng, ngày xưa có hai anh em thợ rèn người họ Trương đến đây lập nghiệp. Ít lâu sau, người anh Trương Như ở lại truyền nghề cho dân làng Trung Lương. Người em vào tận Cố đô Huế lập nên làng rèn Hiền Lương. Để đền đáp công lao to lớn của người đã dạy nghề cho dân làng, nên trong đền làng Trung Lương xây vào năm 1880 có hai câu đối nhắc đến anh em “Trung – Hiền”.
Điện thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh
Cụ Cao Trọng Ý, 99 tuổi, một thợ rèn cao niên trong làng cho biết: “Thợ rèn phường Trung Lương thời nào cũng tài hoa. Khi quốc gia hữu sự, họ đem tay nghề của mình giúp nước, cứu dân. Thời Cần Vương, thầy trò cố Đường đã tình nguyện đem lò bệ của mình lên đại ngàn rèn đao, kiếm cho nghĩa quân cụ Phan Đình Phùng. Cố Đường cùng với ông Cao Thắng chế thành công súng cho nghĩa quân. Trong kháng chiến chống Pháp, thợ rèn Phường Trung Lương đã rèn hàng vạn mã tấu, kiếm, dao găm, sản xuất hơn 2.000 khẩu súng kíp, hàng chục tấn lựu đạn phục vụ dân quân, bộ đội.
Nghề rèn của phường Trung Lương vẫn tồn tại, đáp ứng nhu cầu về công cụ sản xuất và đồ gia dụng cho nhân dân trong vùng. Về với phường Trung Lương hôm nay, chắc hẳn bạn sẽ thấy rất vui bởi từ cán bộ địa phương đến từng người làm nghề đều có ý thức vươn lên để hàng của mình cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, đồng thời cũng là để bảo tồn nghề truyền thống mà ông cha đã để lại”. Ông Nguyễn Văn Hổ, Chủ tịch UBND thị Xã Hồng Lĩnh mong muốn sự quan tâm của các ngành, các cấp để cụm di tích Văn hóa Tiên Sơn và lễ hội trở thành một nét văn hoá đặc trưng trong các lễ hội truyền thống dân gian đầu xuân, để phường Trung Lương trở thành một điểm sáng phát triển kinh tế du lịch văn hoá dân gian bên cụm danh thắng Núi Hồng – Sông Lam … Lễ hội sông nước
Cứ mỗi độ xuân về, vào mồng 3 và mồng 4 tết, người dân nới đây tổ chức lễ hội đua thuyền rồng truyền thống. Hội đua thuyền nhằm chọn ra những tay đua cừ khôi và rèn luyện sức khỏe cho dân vùng sông nước; đồng thời là truyền thống của nhân dân địa phương để cầu yên xóm làng. Lễ hội đã thu hút hành chục ngàn người trong vùng tập trung về hai bờ sông Minh Giang để gặp mặt giao lưu đầu xuân và xem hội.
Con thuyền gắn bó với sinh hoạt, đời sống, phong tục, lễ hội của người Việt. Văn hóa vùng sông, biển với những tục lệ lâu đời đã thành phong tục đặc sắc, là vốn quý trong kho tàng văn hóa dân gian bản địa cổ truyền.
PLXH