Từ câu chuyện của nữ họa sĩ Canada…
Sarah Anne Johnson, một nữ họa sĩ 41 tuổi ở Canada, kể với tờ báo The Guardian rằng bà thường cảm thấy có một màn sương khói mờ ám xung quanh câu chuyện điều trị bệnh của bà ngoại mình, bà Velma Orlikow, cách đây khoảng 60 năm.
Johnson kể, vào năm 1956, bà Orlikow tự mình đến Viện điều trị bệnh tâm thần Allan, một bệnh viện uy tín bậc nhất ở Montreal, Canada, để điều trị chứng bệnh trầm cảm hậu sản. Bà đã liên tục ra vào bệnh viện nhiều lần để tiếp nhận điều trị. Điều lạ là phác đồ điều trị lại kéo dài khá lâu, đến những 3 năm.
Đồng thời, kết quả điều trị cũng khác thường, thay vì có thể làm cho bệnh tình thuyên giảm, ngược lại còn làm cho tình trạng bệnh của bà Orlikow ngày càng nặng thêm. Qua quá trình điều trị, tính cách của bà Orlikow dần dần thay đổi, bà ngày càng có những biểu hiện tâm thần kỳ lạ khiến cho gia đình hết sức lo lắng.
Nạn nhân Velma Orlikow. |
Sự băn khoăn, lo lắng của gia đình bà Orlikow kéo dài hơn 20 năm sau mới được giải thích. Năm 1977, chương trình tẩy não tại Canada được báo chí phanh phui. Thì ra, việc điều trị bệnh cho bà Orlikow tại Viện Allan thực chất là một cuộc thí nghiệm bí mật do Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) tài trợ, và bà Orlikow cũng không phải là người duy nhất bị sử dụng làm vật thí nghiệm.
Bà ngoại Orlikow mất khi Johnson 13 tuổi, chưa hiểu rõ lắm về những vấn đề lớn lao, hoàn toàn không có ý tưởng gì về những thí nghiệm mang tính khoa học phục vụ cho ý đồ quân sự. Nhiều năm sau, khi đã trưởng thành và hiểu chuyện, Johnson bắt đầu tìm kiếm sách báo cũ đọc lại để tìm hiểu về những gì đã xảy ra với bà ngoại mình năm xưa và đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp.
Johnson từng bước khám phá ra rằng có đến hàng trăm người đến điều trị tại Viện Allan và cũng bị sử dụng làm vật thí nghiệm như bà ngoại mình. Và chương trình thí nghiệm đó là một trong hàng trăm dự án thí nghiệm tẩy não trong một dự án chung do CIA tài trợ và được thực hiện khắp khu vực Bắc Mỹ, có tên gọi là MK-ULTRA.
Theo các tài liệu lưu trữ, dự án MK-ULTRA được thai nghén từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Khi đó, chính quyền Mỹ rất ngạc nhiên thấy rằng trong số lính Mỹ tham chiến tại bán đảo Triều Tiên và bị bắt làm tù binh khi trở về sau chiến tranh, một số người có những biểu hiện khác lạ, hoàn toàn thay đổi tư tưởng, quay sang ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, ủng hộ Triều Tiên và chỉ trích, phê phán chính phủ Mỹ một cách gay gắt. Washington nghi ngờ rằng trong quá trình bị giam giữ, những người lính này có thể đã trải qua một cuộc thí nghiệm tẩy não và “bơm” vào những tư duy, ký ức và quan điểm mới.
Thế là Washington gấp rút triển khai chương trình nghiên cứu để tìm hiểu việc đó đã diễn ra như thế nào, liệu có thể thực hiện việc tẩy não làm thay đổi tính cách, tư duy một con người được hay không. Chương trình MK-ULTRA được Giám đốc CIA khi đó là Allen Welsh Dulles ký lệnh triển khai vào ngày 13-4-1953. Do thí nghiệm được thực hiện trên con người đang sống nên dự án đụng chạm nhiều khía cạnh xã hội rất phức tạp, đặc biệt là vấn đề đạo đức và nhân quyền.
Chính vì vậy, dự án được tiến hành trong vòng bí mật tuyệt đối. Ở Mỹ có đến 162 dự án con được CIA tài trợ trực tiếp và tiến hành tại các trường đại học, viện nghiên cứu. MK-ULTRA tại Mỹ đã bị báo chí phanh phui vào năm 1975, nhiều năm sau khi dự án chấm dứt vì kết quả thu được không như mong muốn.
CIA bắt đầu đưa dự án MK-ULTRA đến Canada 3 năm sau khi dự án được triển khai ở Mỹ nhằm mở rộng phạm vi nghiên cứu ra nước ngoài. Một sự trùng hợp là tại Viện Allan ở Montreal, một bác sĩ gốc Scotland tên là Donald Ewen Cameron cũng đang nghiên cứu để tìm hiểu xem liệu các bác sĩ có thể tẩy xóa trí óc của một con người và “bơm” vào những kiểu hành vi mới. Cameron vốn là một bác sĩ tâm thần nổi tiếng thế giới, là một trong những nhà đồng sáng lập Hiệp hội Tâm thần thế giới (WPA), và là giám đốc đầu tiên của Viện Allan.
Bác sĩ Donald Ewen Cameron. |
Nhờ có sẵn dự án nghiên cứu của bác sĩ Cameron, dự án MK-ULTRA tại Canada đã được thúc đẩy một cách hoàn hảo. Hàng trăm nạn nhân người Canada đã vô tình trở thành vật thí nghiệm và đã cho kết quả rõ rệt. “Thật không thể tin được” – Johnson thốt lên khi kể lại những gì bác sĩ Cameron tiến hành trên các bệnh nhân của ông.
Theo các tài liệu lưu trữ, chương trình thí nghiệm tẩy não do CIA tài trợ ở Canada kéo dài trong 10 năm, từ năm 1955 đến năm 1965. Trong giai đoạn này, mỗi năm bác sĩ Cameron nhận tài trợ từ nguồn chính phủ Canada số tiền hơn 500.000 USD, tương đương 4 triệu USD ngày nay. Khi đưa dự án MK-ULTRA đến Canada, CIA cũng tài trợ cho ông ta số tiền tương tự. Việc tài trợ của CIA được thực hiện thông qua tổ chức bình phong là Hội Khảo sát sinh thái người (SIHE).
Theo các tài liệu lưu trữ, bước đầu tiên trong quá trình điều trị của bác sĩ Cameron là cho bệnh nhân trải qua liệu pháp “điện giật” với điện áp khá cao vài lần trong ngày, sau đó cho họ dùng thuốc tạo giấc ngủ sâu và kéo dài hàng tháng và tiêm thuốc gây mê LSD. Nhồi bệnh nhân liên tục như thế trong nhiều tháng, nhiều năm có thể biến họ thành những người có trí óc và năng lực hành vi như trẻ con và tước đi các kỹ năng cơ bản khiến họ không thể tự mặc quần áo hay tự buộc dây giày.
Sau đó, bác sĩ Cameron bắt đầu quy trình “tái lập trình” những bệnh nhân của mình bằng việc bơm, nhồi vào đầu họ những thông điệp ghi âm sẵn mỗi lần liên tục trong 16 giờ. Đầu tiên là những thông điệp tiêu cực về những khiếm khuyết của họ, sau đó là những thông điệp tích cực. Đôi khi những thông điệp này được lặp đi lặp lại hàng triệu lần.
Sự nhồi sọ bằng âm thanh dồn dập và mạnh đến mức có thể khiến cho họ trở nên điên dại, mất kiểm soát bản thân, có những hành vi nguy hiểm như đâm đầu vào tường. Thế là Cameron lại tiêm cho họ những liều thuốc an thần gây ngủ và thuốc gây mê LSD để họ dịu lại và nằm ngủ mê man để ông ta tiếp tục thực hiện công việc nhồi nhét thông tin nhiều và lâu theo ý muốn của ông ta. Đối với những nạn nhân rơi vào tay bác sĩ Cameron, điều đó còn kinh khủng hơn tất cả những cơn ác mộng họ từng gặp trong cuộc đời.
Bên cạnh việc trải qua liệu pháp “giật điện”, bà ngoại của Johnson còn bị tiêm thuốc LSD 14 lần. Johnson cho biết bà ngoại mình từng kể rằng sau khi tiêm thuốc LSD, bà cảm thấy như xương cốt của mình tan biến đi hết. Khi bà Orlikow nói rằng bà không thích tiêm loại thuốc này, lập tức các bác sĩ và y tá chăm sóc bệnh nói với bà những câu tiêu cực như “Bà là một người vợ tồi tệ, bà là một người mẹ tồi tệ. Nếu bà muốn tốt hơn, bà hãy làm điều tương tự thế này với gia đình bà. Hãy nghĩ đến con gái bà trước tiên”.
Viện Allan - nơi diễn ra các cuộc thí nghiệm tẩy não do CIA tài trợ. |
Johnson kể về tác hại của cuộc thí nghiệm lên bà ngoại mình như sau: Sau khi trải qua trị liệu tại Viện Allan, bà Orlikow đã có những biểu hiện của một người tính cách rất dữ tợn, hơn cả người điên thông thường. Bất kỳ ai lỡ va phải bà trên đường đi hay lỡ tay làm đổ nước uống lên người bà là lập tức bà bùng nổ thành một trận cuồng phong, la hét dữ dội nhưng không làm hại ai cả, không gây thương tích cho ai, rồi từ từ bình tĩnh lại.
Thời kỳ bà Orlikow vừa trải qua cuộc thí nghiệm, Johnson còn bé và rất gần gũi bà ngoại, thường xuyên ngồi cùng bà đọc sách, báo và xem truyền hình vào buổi chiều. Nhiều năm sau này, Johnson mới phát hiện ra cuộc thí nghiệm tai hại ở Viện Allan đã tàn phá bộ não bà Orlikow một cách khủng khiếp và bà đã phải nỗ lực không ngừng để tự phục hồi ký ức và những kỹ năng vốn có.
Bà thường phải mất đến 3 tuần để đọc hết một tờ báo, mất hàng tháng trời để viết xong một bức thư và mất hàng năm trời để đọc xong một quyển sách. “Nhưng bà không nản, vẫn cố gắng và cố gắng để tìm lại bản sắc vốn có của mình và làm những việc mà bà từng thích làm” – Johnson kể.
...đến cuộc chiến đòi công lý của các nạn nhân
Những câu chuyện tương tự như câu chuyện của bà Orlikow đã diễn ra khắp đất nước Canada khi rất nhiều nạn nhân khác cũng nỗ lực để tìm lại cuộc đời vốn có của mình. Alison Steel, con gái của một nạn nhân, nói với tờ The Guardian rằng cuộc thí nghiệm của bác sĩ Cameron đã gây tác hại lên cả gia đình mình. Mẹ của Alison, bà Jean Steel, đã đến Viện Allan vào năm 1957 để điều trị chứng bệnh trầm cảm sau khi mất đứa con đầu lòng.
Bà Alison Steel và bức ảnh chân dung mẹ mình. |
Khi đó Alison 4 tuổi, còn bà Jean 33 tuổi, và tin tưởng rằng với uy tín và trình độ chuyên môn cao, bác sĩ Cameron có thể giúp bà thoát khỏi tình trạng bệnh này. Bà Jean được tiêm hóa chất gây ngủ, đợt đầu kéo dài 18 ngày và đợt thứ hai kéo dài 29 ngày. Sau đó, bà lại phải trải qua trị liệu “giật điện”, tiêm các loại thuốc thí nghiệm và nhồi nhét vô số những thông điệp ghi âm sẵn.
Cũng như Johnson, Alison mô tả những gì bác sĩ đã làm đối với mẹ mình thật sự rất khủng khiếp. Đó là một sự tẩy xóa suy nghĩ và cảm xúc, tước bỏ tâm hồn của một con người. Sau 3 tháng điều trị tại Viện Allan, bà Jean trở về nhà với những biểu hiện như mất hết trí nhớ và luôn luôn trong trạng thái lo âu, hồi hộp. “Bà ấy không thể nói chuyện với tôi về những điều bình thường. Bà ấy không thể cười đùa với tôi nữa” – Alison kể.
Alison kể, đôi lúc bà Jean bỗng dưng ngắt ngang câu chuyện để nói những câu không biết từ đâu ra. Alison cho rằng đó có thể là những nội dung ghi âm sẵn được nhồi nhét vào đầu bà Jean.
Dự án tẩy não tại Viện Allan ở Montreal, Canada chấm dứt vào năm 1965. Hai năm sau (1967), bác sĩ Cameron đột ngột qua đời do trụy tim khi đang leo núi. Những hậu quả nguy hại mà ông để lại cho nạn nhân và gia đình họ thì còn kéo dài. Năm 1977, báo chí Canada bắt đầu đăng tải những bí mật xung quanh chương trình MK-ULTRA và dự án thí nghiệm tại Viện Allan.
Năm 1980, một loạt phim tài liệu về dự án này mang tên The Fifth Estate đã được trình chiếu trên truyền hình và tạo nên làn sóng đòi công lý cho các nạn nhân của cuộc thí nghiệm. Tuy nhiên, cuộc chiến pháp lý để đòi lại công bằng của các nạn nhân và gia đình họ cũng hết sức gian nan.
Đầu thập niên 1990, sau nhiều năm giằng co pháp lý, chính phủ Canada đã đồng ý bồi thường cho 77 nạn nhân bị ảnh hưởng nghiêm trọng về nhân cách và sức khỏe tâm thần, mỗi người được nhận 78.000 USD. Hơn 250 nạn nhân khác đã bị từ chối bồi thường vì mức độ ảnh hưởng của thí nghiệm chưa đến mức nghiêm trọng.
Từ đó đến nay, cuộc chiến đòi công lý của các nạn nhân vẫn tiếp tục. Năm 2015, bà Steel đã được chính phủ Canada bồi thường 78.000 USD. Gần đây nhất, tháng 3-2017, chính phủ của Thủ tướng Justin Trudeau tiếp tục bồi thường cho một số nạn nhân. Tổng cộng đã có 90 nạn nhân được bồi thường, số còn lại vẫn tiếp tục cuộc chiến pháp lý.
Tác giả: Nguyên Khang
Nguồn tin: Báo Công an nhân dân