Để có bát nước chè xanh thơm ngon, đậm đà thì phải chọn những cây chè mọc ở nơi có ánh mặt trời, không bị những tán cây lớn che khuất. Lá chè để nấu nước không được non hoặc già quá và cây chè càng mọc ở trên đồi cao thì nước càng ngon. Nước để nấu chè xanh cũng rất quan trọng. Những giếng nước nấu chè xanh ngon có mạch trong veo ở trên vùng đất cao, xa ao hồ, ruộng đồng. Củi nấu cũng góp phần tạo nên chất lượng của ấm chè xanh. Nấu chè xanh phải đun bằng củi gỗ thì nước mới thơm ngon. Cách chế biến chè cũng là cả một “nghệ thuật”. Chè đem về được rửa sạch, vò kỹ, cọng bẻ gãy và tước ra. Đun cho nước sôi rồi mới cho chè vào, sau đó tiếp tục đun cho nước sôi lại, đến khi có màu xanh thì nhấc xuống, múc ra uống là vừa, không được để sôi kỹ quá, nước sẽ có màu bầm tím và rất khó uống.
Uống nước chè xanh ở quê tôi không chỉ là một nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, mà còn là một tập tục văn hóa truyền thống đậm tình xứ Nghệ. Nước chè xanh gắn bó với mỗi đời người từ thuở thiếu thời cho đến lúc về cõi vĩnh hằng. Khi xa quê, tiếng “gọi chè” luôn thổn thức trong tôi, đưa tôi về sống với kỷ niệm êm đềm của những đêm hè nóng nực, trong xóm nhỏ, những người dân quê tôi lần lượt nấu nồi nước chè to rồi mời bà con làng xóm đến uống. Chẳng ai bảo ai, thân thiết và tự nguyện, lần lượt thay nhau. Những người phụ nữ xứ Nghệ tảo tần, lam lũ đến lượt nhà mình “gọi chè” thường cố gắng chuẩn bị thật chu đáo. Nồi nước chè lúc ấy không chỉ thể hiện sự hiếu khách, nghĩa tình, mà còn trở thành tiêu chí để đánh giá cái đảm đang, khéo léo của gia chủ, một niềm tự hào lặng lẽ, âm thầm mà mãnh liệt bao đời nay.
Trong cuộc sống hối hả, bộn bề nơi thị thành tráng lệ, thứ thức uống giản dị mang hồn vía của quê hương vẫn hiện hữu trong ký ức tôi, trong lao xao nắng gió tôi lại nghe: Để cùng hát khúc dân ca quê mình, để tôi sống giữa bao nhiêu ân tình, bao ân tình mộc mạc làng quê, trưa nắng hè, gọi nhau râm ran chè xanh…
NGUYỄN ANH SƠN