Danh Nhân

Tiến sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám Hà Công Trình và phiến đá thức tỉnh

Phiến đá ấy đến nay vẫn còn, tại nhà thờ họ Hà xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Hà Công Trình (1434 – 1511) còn có tên là Hà Trình, Hà Tông Trình, sinh tại làng Đông Rạng, xã Đông Tỉnh, nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; con thứ hai của cụ Hà Nho, cháu 6 đời của cụ Hà Mại.


Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ năm 1466 đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Hình, bộ Công; năm 1502 kiêm chức Tế tửu (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám; là danh sĩ, là vị quan thanh liêm được người đời và Đại Việt sử ký Toàn thư ca tụng.Thời ông là Thượng thư kiêm Nhập thị Kinh diên (giảng bài cho vua), lúc nghỉ ngơi, có kể chuyện thuở nhỏ của mình cho Lê Thánh Tông nghe: Tuổi trẻ ở quê nhà chưa biết chăm học. Một hôm đi câu cá về khuya nằm ngủ thiếp trên phiến đá đầu làng. Trong mơ, ông thấy có người đến trách sao cứ ham chơi, không chịu học, phí cả cái tài. Tỉnh dậy, từ đó mới biết tu chí học hành. Vua khen chuyện hay, có ý nghĩa răn dạy đời sau. Nhân vua cao hứng, ông tâu xin đổi tên làng từ Đông Tỉnh sang Tỉnh Thạch (Hòn đá thức tỉnh). Vua chuẩn y.Sách “Thoại thực ký văn” của Trương Quốc Dụng viết “Thuở nhỏ hàn vi, ông (Hà Công Trình) có lần say rượu nằm ngủ trên hòn đá ven đường, mộng thấy có người đến khuyên: “Sao không về đi học, uổng mất cái tài lỗi lạc”! Ông tỉnh dậy, trở về theo đòi nghiên bút đến nên danh. Khi đã quý hiển, ông xin đổi tên làng Đông Tỉnh thành Tỉnh Thạch”.Sách “Từ điển Hà Tĩnh” (xuất bản năm 2000, trang 716) viết: “Làng Tỉnh Thạch xưa có tên là làng Đông Tỉnh. Tương truyền vào giữa thế kỷ XV, Hà Công Trình vốn nhà nghèo nhưng học giỏi. Một hôm đi câu cá về khuya, nằm lăn ở hòn đá đầu làng ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ thấy một người đến gặp khuyên hãy bỏ rượu và tu chí học hành ắt sẽ thành tài”. Xã Tỉnh Thạch có tên đến năm 1945. Sau đó đổi tên thành xã Sơn Thủy. Năm 1948-1952 mang tên xã Ích Hòa. Từ năm 1953 đến nay là xã Tùng Lộc.Hòn đá đầu làng ấy nay vẫn còn tại nhà thờ tổ họ Hà ở Tùng Lộc.Sắc phong của Triều Nguyễn, Tự Đức thứ 6, ngày 13 tháng giêng năm 1853 viết: “Sắc truyền tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất (1466) Thượng thư bộ Binh, bộ Hình triều Lê, Phủ quân họ Hà giúp nước yêu dân, linh ứng rõ rệt. Đến nay vâng lệnh Đức Cả, mệnh lệnh sáng suốt, suy xét sâu xa, thần vị được tặng Tuấn lương thần. Chuẩn cho xã Tỉnh Thạch, huyện Can Lộc phụng thờ như cũ. Mong thần ra sức giúp nước, bảo vệ dân ta”.Ông Hà Công Trình được coi là ông tổ học họ Hà. Tùng Lộc được coi là quê gốc họ Hà ở Hà Tĩnh.Về họ Hà ở Hà Tĩnh, Giáo sư – Nhà giáo nhân dân Hà Văn Tấn trong một bài viết đề tháng 8 năm 2004 (Họ Hà, các nhà khoa bảng, các nhân vật lịch sử, văn bia – NXB Văn hóa dân tộc,2004) đưa ra kết quả nghiên cứu như sau:“ Theo các gia phả Họ Hà ở Hà Tĩnh mà tôi sưu tầm được thì các Họ Hà ở Hà Tĩnh đều có nguồn gốc chung.Căn cứ vào các gia phả thì họ Hà ở Hà Tĩnh đã có từ đời Trần, cư trú tại huyện Cẩm Xuyên, sang thời thuộc Minh thì dời về xã Tỉnh Thạch huyện Thiên Lộc (Nay là xã Tùng Lộc huyện Can Lộc). Họ Hà Tỉnh Thạch cuối thế kỷ XV có Hà Công Trình, đỗ hoàng giáp thời Quang Thuận đời Lê Thánh Tông (1466). Hà Công Trình là tên chép ở bia Văn miếu và Đại Việt sử ký Toàn thư, còn gia phả thì chép là Hà Tông Trình, Hà Tông Trình làm Tế tửu Quốc Tử Giám sau làm quan đến Thượng thư bộ Hình, bộ Binh.Cháu 7 đời của Hà Tông Trình là Hà Tông Mục đỗ Tiến sĩ năm Chính Hòa thứ 9 (1688), làm bồi tụng kiêm Phủ Doãn phủ Phụng Thiên, thống lĩnh thủy quân và làm Biên tu Quốc Sử quán, tham gia viết Đại Việt sử ký tục biên. Sau khi chết được truy tặng Thượng thư bộ Công. Khi còn sống được nhân dân quê nhà lập Sinh Từ, văn bia Sinh Từ nói về công đức của ông hiện nay vẫn còn. Ngày nay Đại tá Hà Văn Sĩ, nguyên Phó Cục trưởng thuộc Bộ Quốc phòng còn giữ được các sắc phong của Hà Tông Mục và nhiều giấy tờ thời Lê cũng như di chúc của Hà Tông Mục do tay cụ viết.Không biết về đời nào của dòng họ Hà ở Tỉnh Thạch, có xảy ra một sự cố đáng ghi nhớ. Đó là trong một dịp khao làng, con cháu đã để thuốc độc rơi vào nồi cháo, có người bị trúng độc. Quan huyện sai người đến bắt, vì vậy có mấy người con trai phải bỏ trốn.Một người chạy lên huyện Hương Sơn làm thành dòng Hà Huy của Hương Sơn (dòng họ của đồng chí Hà Huy Giáp). Sau một bộ phận cùa dòng họ này tách thành họ Hà Học (Họ của Hà Học Hợi).Một người chạy vào huyện Cẩm Xuyên làm thành họ Hà Huy ở Cẩm Xuyên (họ của đồng chí Hà Huy Tập, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam).Một người chạy ra huyện Nghi Xuân làm thành dòng họ của Hà Văn Đại, đỗ Phó bảng năm 1919.Dòng họ Hà ở Như Xuân, theo văn bia, sau có người dời ra Kim Vực huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa (Nay là huyện Yên Định) là dòng họ Hà của Hà Tông Huân, đậu Bảng nhãn năm Bảo Thái thứ 5 (1724) làm quan đến Tham tụng và Thượng thư bộ Binh.Dòng họ Hà ở Thanh Hóa sau có người dời về Cát Động huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông làm thành dòng họ của Hà Tông Quyền đỗ Tiến sĩ năm Minh Mệnh thứ 3 (1822).Dòng họ Hà ở Nghi Xuân vào thế kỷ thứ XVI có một chi dời vào huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam”.(Còn nữa)


Nguyễn Sĩ Đại

DVT

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP