Vùng đất này có một không gian, một cảnh quan địa lý riêng biệt, là châu thổ sông La, sông Lam. Đây cũng là nơi có những cánh đồng, nương bãi trù phú, những dãy núi nổi tiếng như Thiên Nhẫn, Trà Sơn, Tùng Lĩnh, thuận lợi cho sự hình thành và ổn định để phát triển nông nghiệp chăn nuôi; thương nghiệp; thủ công nghiệp, văn nghệ dân gian với bản sắc văn hóa và môi trường nhân văn riêng. Cảnh quan địa lý, điều kiện tự nhiên có tính ưu việt này đã tạo nên quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa dân tộc và khu vực sớm, cùng với các thành tố văn hóa địa phương, đã tạo nên tiền đề để vùng đất này sớm tụ cư và phát triển, sáng tạo nên nhiều giá trị văn hóa, lịch sử.
2. Là trung tâm của Xứ Nghệ, vùng đất ven sông La nói riêng và Đức Thọ nói chung có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Trong quá trình chống giặc ngoại xâm từ phương Bắc, bảo vệ và mở mang bờ cõi, Đức Thọ không chỉ là phên dậu mà còn là đất “tiến”, bàn đạp tiến công của nhà nước Đại Việt. Khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi đã chọn nơi đây để đứng chân, phản công và giành thắng lợi, giải phóng đất nước, lập nên triều Lê. Núi Tùng Lĩnh, phía Nam sông La là tiền đồn, núi Thiên Nhẫn, phía Bắc sông La là đại bản doanh của nghĩa quân Lê Lợi. Kháng chiến chống thực dân Pháp, Đức Thọ là trung tâm của phong trào Cần Vương nổi tiếng, là địa bàn quan trọng của các hoạt động yêu nước và cách mạng, từ phong trào Duy Tân – Đông Du, chống sưu thuế (1908), Hội Phục Việt, Tân Việt cách mạng Đảng, Xô viết Nghệ Tĩnh đến cách mạng giành chính quyền 1945. Kháng chiến chống Mỹ, sông La trở thành huyết mạch giao thông, cùng với đường bộ 8A, phà Linh Cảm – ngã ba sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố, điểm chốt trên núi Tùng Lĩnh, núi Thiên Nhẫn… góp phần quan trọng cho thắng lợi chung của dân tộc.
Những đặc điểm lịch sử nói trên đã tạo nên tính cách, phẩm giá con người ven sông La – chủ thể sáng tạo nên những câu ví đầy bản sắc văn hóa thấm đẫm cốt cách con người Xứ Nghệ. (*)
3. Xét cảnh quan địa lý, điều kiện tự nhiên và căn cứ vào chứng cứ lịch sử, có thể thấy rằng, cộng đồng cư dân ven sông La bắt đầu từ trên các đồi núi tiến xuống để khai phá miền đất màu mỡ ven sông, kênh rạch và ao hồ. Họ đánh bắt cá, trồng lúa, trồng rau trên các bãi sông, rồi trồng lúa trên các chân ruộng thấp. Một yếu tố quan trọng khác để hình thành và ổn định cộng đồng cư dân dọc hai bờ sông La là quá trình thiên di để cộng cư và tụ cư từ sau Công nguyên; đặc biệt là sau khi thoát khỏi thời Bắc thuộc. Nhiều xã, nhiều dòng họ lớn ven sông La có nguồn gốc dân thiên di. Đáng quan tâm là vùng đất phía cuối sông La là nơi dân nhiều nơi tụ cư về; đặc biệt là người Hoa đã từng làm nên phố Phù Thạch một thời sầm uất.
Dân ca ví, giặm là phương tiện thổ lộ tâm tình, làm vơi bớt nỗi mệt nhọc của người dân Xứ Nghệ… Ảnh internet |
Từ đời Trần – Lê, nhiều văn thần, võ tướng là nhà khoa bảng ở Thăng Long, Kinh Bắc, Hải Dương, Thanh Hoa vào đây làm quan và một số ở lại định cư. Đức Thọ thời nào cũng có một đội ngũ đông đảo trí thức bình dân đến các nhà khoa bảng nổi danh. Đặc điểm này đã tạo nên sự giao thoa văn hóa miền Đức Thọ/ven sông La với các vùng, miền khác; đặc biệt là văn hóa Bắc bộ, ảnh hưởng tới sự hình thành tính cách con người. Ngoài tính cách yêu nước, thông minh, cần cù, chịu khó, hiếu học, tình nghĩa, can trường, gan góc, khô khan… vốn có của người Xứ Nghệ, cư dân ven nơi đây giàu có thêm tính cách của dân xứ Bắc kỳ mềm dẻo, phóng khoáng, hào hoa… Điều ấy làm nên sự phong phú của lời, của làn điệu và nét độc đáo ngữ ngôn của hát ví Sông La. (*)
Cũng do sự thiên di, tụ cư mà cộng đồng cư dân hai bên bờ sông La sáng tạo nên nhiều nghề thủ công làm tiền đề cho sự phát triển các chợ, các phường hội như phường buôn thuyền, phường thủ công, phường võng, phường vàng… gắn với sự hình thành, phát triển các làn điệu ví đò đưa Sông La, ví đò đưa xuôi dòng, ví đò đưa nước ngược, ví ghẹo, ví phường vải… các hình thức hát giặm: hát giặm nam nữ, hát giặm vè.
4. Trong quá trình chống giặc ngoại xâm để giữ gìn quê hương, đất nước và chống thiên tai để tồn tại, phát triển, cộng đồng cư dân nơi đây không chỉ sáng tạo làn điệu cổ truyền hát ví có nhạc ngữ riêng, độc đáo mà còn xây đắp nên một kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc. Văn hóa dân gian vùng ven sông La phong phú về loại hình, thể loại, đa diện và sâu sắc về nội dung và có bản sắc riêng: Truyện thần thoại, Truyền thuyết, Truyện cổ tích, Truyện cười, Truyện ngụ ngôn đề tài phong phú, chủ đề sâu sắc, đầy tính triết lý nhân sinh. Các loại hình dân ca hò, ví, giặm, vè, hát đồng dao, hát nhà trò, hát ru, tuồng… có nhịp điệu khoan thai, lời đẹp, ý sâu, giàu tính trữ tình song cũng giàu tính chiến đấu (…)
Ngoài ra, truyền thống văn hóa thành văn, văn hóa bác học với những thành tựu nổi bật và những nhân vật đại diện tiêu biểu như: Đoàn Xuân Lôi, Phan Nhật Tĩnh, Bùi Dương Lịch, Phan Đình Phùng, Phạm Văn Ngôn, Đậu Quang Lĩnh, Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Hoàng Xuân Nhị… Phẩm chất, tính cách của họ, tác phẩm văn chương nghệ thuật của họ đã tác động tích cực tới sự phát huy truyền thống văn hóa quê hương và trực tiếp ảnh hưởng tới hát ví Sông La trên các phương diện âm nhạc, ca từ, không gian diễn xướng (…)
5. Những đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa xã hội Đức Thọ vừa có tính đại đồng, vừa có tính tiểu dị. Tính đại đồng tạo nên sự hòa nhập của Đức Thọ với các vùng miền khác. Tính tiểu dị tạo nên những nét riêng nổi trội của Đức Thọ. Những đặc điểm ấy làm nên các thành tố văn hóa Đức Thọ và các thành tố ấy trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới sự hình thành và phát triển của hát ví Sông La.
Tính ưu việt địa – văn hóa của Đức Thọ, của các xã ven hai bờ sông La, sông Lam, sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố đã tạo nên một loại hình dân ca độc đáo, giàu bản sắc văn hóa, đã, đang và sẽ là một yếu tố tạo nên sự đa dạng văn hóa, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Hát ví Sông La do con người sáng tạo ra, con người từng gắn bó và phát triển nó để phục vụ cho đời sống tinh thần của mình. Vì vậy, nguyên tắc tôn trọng vai trò cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị hát ví Sông La phải đặt lên hàng đầu.
ĐỨC BAN
_______
(*) Do khuôn khổ của tờ báo và được sự đồng ý của tác giả, BBT có lược bỏ các dẫn chứng.