Quốc khánh được nghỉ lễ 2 ngày
Sáng 20/11, với 435 đại biểu tán thành (tương đương 90,06% số phiếu), Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự án Bộ luật Lao động sửa đổi tại kỳ họp thứ 8.
Bộ luật gồm 17 chương, 220 điều và sẽ có hiệu lực từ 1/1/2021.
Trước khi biểu quyết thông qua toàn bộ dự án Luật, 3 nội dung đáng chú ý nhất trong Bộ luật Lao động sửa đổi lần này về đề xuất tăng thời gian làm thêm giờ tối đa từ 300 giờ lên 400 giờ/năm, bổ sung thêm một ngày nghỉ lễ, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở cũng được Quốc hội biểu quyết thông qua từng nội dung.
Kết quả biểu quyết cho thấy, Quốc hội quyết định không tăng khung thoả thuận làm thêm giờ tối đa, bổ sung thêm một ngày nghỉ lễ vào dịp Quốc khánh 2/9 (không nghỉ lễ vào ngày Gia đình Việt Nam 28/6) và quy định thành lập tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Báo cáo giải trình trước Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thuý Anh cho biết, nhiều đại biểu đề nghị bổ sung thêm 1 ngày nghỉ trong năm có hưởng nguyên lương cho người lao động. Trong đó, có ý kiến đề nghị nên chọn ngày nghỉ liền kề Ngày Quốc khánh 2/9; có ý kiến đề nghị chọn Ngày Gia đình Việt Nam (28/6).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng nếu được Quốc hội quyết nghị bổ sung thêm một ngày nghỉ trong năm thì nên chọn ngày liền kề với Ngày Quốc khánh 2/9.
Từ năm 2021, người dân cả nước sẽ có thêm một ngày nghỉ lễ vào dịp Quốc khánh 2/9. Ảnh: Trọng Tùng. |
"Đây là ngày Tết Độc lập, cũng là dịp để người lao động có thêm thời gian tham gia các hoạt động kỷ niệm, chào mừng Quốc khánh 2/9, tăng thêm ý nghĩa chính trị, nâng cao niềm tự hào dân tộc về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình. Đồng thời, đáp ứng được mong muốn của người lao động có thêm thời gian nghỉ ngơi, sum họp gia đình và giúp trẻ em, học sinh, sinh viên chuẩn bị cho ngày khai giảng năm học mới", bà Thúy Anh nhấn mạnh.
Khuyến khích làm việc 40 giờ/tuần
Về thời giờ làm việc bình thường, Chủ nhiệm Uỷ ban Về các vấn đề xã hội cho biết, nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị giảm từ 48 giờ/tuần xuống 44 giờ/tuần; một số khác đề nghị giữ như quy định hiện hành về thời giờ làm việc bình thường là 48 giờ/tuần.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí việc từng bước giảm giờ làm theo hướng sẽ ghi vào Nghị quyết của kỳ họp: Giao Chính phủ căn cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội, đề xuất giảm giờ làm việc bình thường thấp hơn 48 giờ/tuần; đồng thời, giữ quy định “Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ đối với người lao động” tại Điều 105 về thời giờ làm việc bình thường.
Một vấn đề khác nhận được rất nhiều ý kiến của các ĐBQH đó là tăng tuổi nghỉ hưu lên 62 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ.
Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, tức là đến năm 2028 sẽ có lao động nam đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 62 và năm 2035 sẽ có lao động nữ đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 60.
Tuy nhiên, vẫn có một số đại biểu Quốc hội cho rằng việc áp dụng cùng một lộ trình nâng tuổi nghỉ hưu khó có thể áp dụng chung cho các đối tượng lao động khác nhau; có ý kiến đề nghị giữ nguyên tuổi nghỉ hưu như hiện nay; một số ý kiến đề nghị đối với lao động nữ thì tuổi nghỉ hưu chỉ đến 58 tuổi; có ý kiến đề nghị đối với nhóm lao động trực tiếp và một số lao động đặc thù cần xem xét giữ như Bộ luật hiện hành…
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo xin ý kiến đại biểu Quốc hội, kết quả có 371 đại biểu Quốc hội tham gia ý kiến về nội dung này thì có 280 đại biểu Quốc hội đồng ý Phương án 1 là: “Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu và thể hiện trong dự thảo Bộ luật.
Điều 107, Bộ luật Lao động sửa đổi quy định Thời gian làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây: a) Phải được sự đồng ý của người lao động; b) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 40 giờ trong 01 tháng; c) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 01 năm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây: a) Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản; b) Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước; c) Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời; d) Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn, do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước do hậu quả thời tiết, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất; đ) Trường hợp khác do Chính phủ quy định. Khi tổ chức làm thêm giờ theo quy định tại khoản 3 Điều này, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Chính phủ quy định chi tiết Điều này. |
Tác giả: Công Luân - Hoa Liên
Nguồn tin: Báo Người Đưa Tin