![]() |
Toàn cảnh làng Văn Lâm hiện nay (nhìn từ trên cao xuống) |
Văn Lâm có tự bao giờ?
Văn Lâm xưa là một trong 3 thôn: Văn Xá, Văn Lâm, Thuỵ Lâm của xã Hoa Lâm (huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An). Hoa Lâm là xã cổ, là điểm cư dân có từ thời nhà Trần (khoảng những năm 1247). Làng Văn Lâm được hình thành bắt đầu từ một số ít hộ dân cư trú tại xóm Thụy (có nghĩa là xóm đẹp) - khu vực gần đền làng bây giờ, đây là vùng đất cao ráo (có thể ngày đó vùng đất này là một quả đồi hay là một ngọn núi nhỏ). Dòng họ đầu tiên về đây lập nghiệp là họ Trần, sau đó các dòng họ khác mới về đây. Gia phả họ Phan ghi: “Các tổ tiên ta ở Thuỵ Vân về từ năm 1648 (nay là Tường Vân, Đức Thuỷ), chỗ ở đầu tiên là xóm Thuỵ dần dần phát triển lên xóm Thộ”.
Theo từng giai đoạn lịch sử, tên làng có nhiều đổi thay, thời nhà Lê làng có tên gọi là Kẻ Sim (có thôn Sim Vải chuyên làm nghề trồng bông, dệt vải và thôn Sim Lụa chuyên trồng dâu, nuôi tằm); đến thời nhà Nguyễn, làng đổi tên thành Tiền Hậu - ghép tên hai thôn là thôn Hậu (xóm Thuỵ) và thôn Tiền (xóm Thộ) lại với nhau.
![]() |
Xóm Thuỵ ngày nay |
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), tổng Hoa Lâm đổi tên thành tổng Văn Lâm. Lí do tránh tên kỵ (huý) của bà phi tần Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ của vua Thiệu Trị). Từ đây tên làng, tên xã, tên tổng gọi chung một tên là Văn Lâm. Minh chứng cho điều này, hiện còn có đôi câu đối ở nhà thờ cụ Phan Sài (Hậu Thần làng), đôi câu đối viết: “Lịch triều ba cổn, hách như Văn Lâm hạp cảnh; Thiên cổ miếu đình, nghiễm nhược Tiền Hậu nhị thôn”, dịch nghĩa: “Trải các triều vua có được quan tước, hiển hách như cả đất Văn Lâm; Ngàn năm được thờ phụng ở đình đền, uy nghi như hai thôn Tiền - Hậu”. Như vậy danh xưng “Văn Lâm” có từ đầu nhà Nguyễn, cụ thể là năm 1841.
Hiện nay, làng Văn Lâm thuộc xã Lâm Trung Thuỷ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, làng có hai thôn là Đồng Thanh Lâm và Đức Hương Quang, dân số có 752 hộ, với 2219 nhân khẩu, diện tích tự nhiên khoảng 1,5 ki-lô-mét vuông.
Vùng quê giàu bản sắc văn hoá
Làng Văn Lâm thuộc dải đồng bằng hữu ngạn sông La, đồng điền Văn Lâm thấp, đất thịt nặng, chai và dẻo, nắng thì cứng như sành, mưa thì trơn như mỡ. Trước năm 1936, khi chưa có đê Linh Cảm, úng lụt, hạn hán, thiên tai xẩy ra liên miên, nghề chính của người dân là trồng lúa - độc canh cây lúa, làm ruộng rất vất vả và gian khổ. Vì vậy nên người dân Văn Lâm mới có câu ca:
“Ai béo bạo (khoẻ) như tru (trâu)
Về đất Kẻ Ngù cũng tóm (ốm) như dam (cua đồng)”.
Trước đây vào thời nhà Nguyễn, đất đai, ruộng vườn phần lớn tập trung vào những địa chủ, những gia đình giàu có trong làng. Người dân Văn Lâm phải cày rẽ ruộng, làm thêm nghề phụ hàng xay, hàng xáo hoặc rủ nhau sang Lào làm thuê nhưng vẫn đói cơm, túng thiếu quanh năm. Phụ nữ làm nghề nông, cày cấy, cắt cỏ (một số ít có chăn tằm dệt vải); nho sĩ thì đi đây đó dạy học kiếm cơm.
Không gian địa lý, sự làm lụng vất vả đã rèn cho người dân một tâm hồn cứng rắn, tinh thần chịu đựng gian khổ, tính tháo vát, cần kiệm để vươn lên.
Người dân Văn Lâm có tinh thần kiên cường, bất khuất chống áp bức, tinh thần đoàn kết xả thân vì nghĩa lớn, tạo nên cốt cách và khí phách riêng của người Văn Lâm. Thời Nhà Lê trung hưng, làng Văn Lâm có 08 người là Ưu binh hoàng triều được ban sắc Tướng quân. Với một ngôi làng nhỏ, dân cư còn ít (thời đó khoảng vài hộ gia đình, mỗi họ là một hộ gia đình vì họ nhiều đời nhất mới đến đời thứ 4 - đời chắt) mà có tới 08 người được sắc phong là Tướng quân, nên làng Văn Lâm cũng được xem là một làng (điểm dân cư) có dấu ấn đặc trưng của vùng quê Nghệ Tĩnh trong lịch sử.
Thời Nguyễn khi Pháp xâm lược (cuối thế kỷ 19), làng Văn Lâm có nhiều thanh niên hưởng ứng, tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp, tiêu biểu như các ông Nguyễn Bá Dỹ, Phan Văn Duệ. Phong trào Cần Vương tắt, đầu thế kỷ 20, nhiều thanh niên tiến bộ của làng đã tham gia hoạt động cách mạng, tiêu biểu như các ông: Phan Dương hoạt động bí mật tại Lào và Thái Lan, Phan Nhuận tham gia Tân Việt cách mạng Đảng; Võ Dương, Võ Cơ (Vũ Cơ), Võ Đông Trạch (Tư Trạch), Phan Lan,… là những cán bộ tiền khởi nghĩa.
Văn Lâm là vùng quê cày sâu cuốc bẩm, dưa muối, nhút cà nhưng cũng là một vùng quê giàu bản sắc văn hoá. Từ khi lập đất dựng làng, làng đã xây dựng chùa, đền và các nhà thờ họ, quanh năm thờ phụng thâm nghiêm.
Làng có chùa “Hoa Lâm Ngự” được xây dựng từ thời đầu nhà Trần, là ngôi chùa cổ linh thiêng của vùng hạ Đức Thọ. Năm 2008, chùa được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng là “Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh”.
![]() |
Thượng điện chùa Hoa Lâm Ngự hiện nay |
Cùng với xây dựng chùa, làng còn xây dựng đền để thờ Thành hoàng làng và những người có công với làng xã, đền có tên gọi là “Đền Tiền Hậu”, lúc đầu chỉ có Thượng điện, Thiêu hương bằng gỗ lim lợp tranh. Năm Ất Hợi (1815) thời vua Gia Long làng bắt đầu xây dựng đền kiên cố và to đẹp. Trải qua 121 năm xây dựng, đến năm Bính Tý (1936), đền xây dựng xong hoàn tất, đi vào tế lễ một cách nghiêm trang. Khuôn viên Đền rộng hơn một mẫu, kiến trúc gồm 6 toà nhà lớn (Thượng điện - Trung điện - Hạ điện; Tả vu - Hữu vu; Tam quan) được chạm trổ rất tinh vi và trang nghiêm, nhiều đồ tế khí quý. Trong đền có treo các sắc phong của nhiều triều vua ban như: Sắc của vua Lê Chiêu Thống, Sắc của vua Khải Định... Minh chứng cho công cuộc xây dựng này được viết lại thành câu đối treo trước nhà Thượng điện của đền: “Gia Long Ất Hợi đông cung tạo; Bảo Đại Bính Tý hạ cáo thành”.
![]() |
Đền Tiền Hậu hiện nay (đang được các thế hệ người con làng Văn Lâm chung tay xây dựng lại trên nền đất cũ) |
Văn Lâm là làng nhỏ, dân số chưa đến 2300 người nhưng trên mảnh đất này có tới 12 dòng họ lớn định cư lập nghiệp, đó là các họ: Trần, Nguyễn Viết, Nguyễn Doãn, Nguyễn Duy, Phan, Nguyễn Bá, Võ Tá, Võ Viết, Võ (thường gọi Võ Dương), Nguyễn Khắc, Nguyễn Ngọc và Nguyễn Công. Theo Gia phả của các dòng họ ghi lại thì phần lớn các dòng họ ở làng Văn Lâm được hình thành (các vị thuỷ tổ đến làng Văn Lâm định cư lập nghiệp) vào giai đoạn lịch sử “Nhà Lê trung hưng (1533-1789)”.
Ngôi làng hiếu học
Văn Lâm cũng là một ngôi làng hiếu học có tiếng ở Hà Tĩnh, đời Lê, làng có nhiều cụ đỗ đạt làm quan, đó là các cụ: Nguyễn Doãn Minh - ông đỗ tứ trường thi Hương khoa thi năm Giáp Tý đời Chính Hoà (1684), đỗ tam trường thi Hội, đặc cách cử làm Huấn Đạo phủ Yên Bình, sau về dạy tại Quốc Tử Giám; Nguyễn Khắc Kính - ông đỗ Tiến sĩ đời nhà Lê năm 1711, từng làm việc tại Đại Lý Tự, tri huyện Kỳ Hoa (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), thừa phủ Thái Bình; Nguyễn Đăng Quỳnh - ông đậu Hương Cống vào cuối nhà Lê, từng làm tri huyện Thanh Chương (Nghệ An) và nhiều cụ thi hương đậu tam trường, nhị trường làm nghề dạy học - “giáo tập sĩ tử”.
Song cái mà Văn Lâm tự hào là cái sĩ khí nho phong của làng. Thời phong kiến, các nho sĩ làng Văn Lâm sống cần kiệm, gắn bó với làng quê, tâm lo cho làng xã, giáo dục con cháu nêu cao trung hiếu lễ nghĩa, trọng nhân cách hơn trọng chức vụ.
Thế hệ con em làng Văn Lâm sau Cách mạng tháng Tám cũng “sĩ bất phủ, dĩ bất hoàng nghị, nhân trong nhi đạo viễn” (người trí thức không thể không nhìn xa trông rộng, trách nhiệm nặng nề, đường đi dằng dặc). Họ dấn thân và xả thân, nhiều người đã làm nên sự nghiệp, đóng góp lớn cho đất nước và quê nhà, tiêu biểu là các ông: Phan Vọng Chi (01 trong 05 người ở Đông Dương thi đỗ Tham tá, hoạt động cách mạng bí mật tại Lào và Thái Lan), Phan Nhuận (Cử nhân Luật khoa và Văn khoa vào năm 1938 tại Pháp, luật sư tại Toà Thượng thẩm Pari, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, người đầu tiên dịch Nhật kí trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Mình từ chữ Hán ra tiếng Pháp), Đại tá Võ Đông Trạch nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Rạch Giá (Kiên Giang), GS.TS Võ Hành chuyên gia đầu ngành nghiên cứu về Tảo, PGS.TS Nguyễn Nghi chuyên gia đầu ngành về Thuỷ điện, PGS.TS Phan Thanh Dẫn cây đại thụ ngành “Nhãn khoa” Việt Nam, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thọ nguyên Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không - Không quân, ông Phan Lan nguyên Phó Giám đốc Sở Y tế Quảng Bình, nhà giáo Phan Đường - người thầy của các giáo sư, nhà giáo Nguyễn Đình Thức nguyên Phó Giám đốc Sở GDĐT Hà Tĩnh,…
Hiện nay, làng Văn Lâm đã đổi thay rất nhiều, vẫn là vùng độc canh cây lúa, nhưng với hệ thống điện, thuỷ lợi, kĩ thuật thâm canh mới, giống cao sản mới, Văn Lâm đã trở thành vựa lúa của xã Lâm Trung Thuỷ. Bên cạnh đó, người dân đã học thêm được nhiều nghề phụ giúp nâng cao đời sống. Về Văn Lâm hôm nay không “tóm như dam” nữa mà Văn Lâm đã trở thành vùng quê nông thôn mới, vùng quê đáng sống.
Tác giả: Phan Duy Nghĩa
Nguồn tin: doisongphapluat.nguoiduatin.vn