Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII (ngày 20/10/2014) |
Thưa đồng chí đồng bào,
Phần thứ nhất
Chúng ta thực hiện nhiệm vụ năm 2014 trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Xung đột xảy ra ở nhiều nơi. Căng thẳng trên biển Hoa Đông và biển Đông.
1. Về kinh tế vĩ mô Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định tốt hơn. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, 9 tháng tăng 2,25%, thấp nhất trong 10 năm qua; dự kiến cả năm tăng dưới 5%. Mặt bằng lãi suất giảm khoảng 2% so với cuối năm 2013. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9 đạt 7,26% (cùng kỳ là 6,87%), dự kiến cả năm tăng 12 – 14% theo kế hoạch. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại tệ tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên.[1]
Xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng khá cao. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tăng 14,4%. Xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng 13% (cùng kỳ tăng 3%). Nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng cao (hạt tiêu tăng 41,5%, cà phê tăng 31%, giầy dép tăng 24,5%, hạt điều tăng 23,7%, thủy sản tăng 23,7%, máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 22,1%, dệt may tăng 19%, điện thoại và các loại linh kiện điện tử tăng 11,3%). Nhập khẩu tăng 11,6%, chủ yếu là máy móc, thiết bị và nguyên nhiên vật liệu. Ước cả năm xuất khẩu khoảng 148 tỷ USD, tăng 12,1%; nhập khẩu khoảng 146,5 tỷ USD, tăng 11%. Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế tổng thể tiếp tục thặng dư.[2]
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 9 tháng tăng 10,3% so với cùng kỳ, ước cả năm bằng khoảng 30,1% GDP. Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng 12,8%, ước cả năm tăng 5,45%. Vốn FDI thực hiện đạt 8,9 tỷ, tăng 3,2%, ước cả năm đạt 12,5 tỷ USD, tăng 8,7%. Vốn ODA giải ngân đạt 4,1 tỷ, tăng 10%, ước cả năm đạt 5,5 tỷ USD, tăng 7,1%. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ ước cả năm tăng khoảng 18,3%.[4]
Kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế chưa vững chắc. Bội chi ngân sách còn cao. Nợ công tăng nhanh. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì khoảng 26,2%.[6] Tổng cầu tăng chậm. Tăng trưởng tín dụng chậm trong những tháng đầu năm. Nợ xấu còn cao, xử lý còn chậm. Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường chứng khoán phát triển chưa vững chắc. Thị trường bất động sản phục hồi chậm. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Quản lý thị trường, phòng chống gian lận thương mại, chuyển giá hiệu quả chưa cao.[7]
Tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp như thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, tín dụng, đất đai, xây dựng, thành lập và giải thể doanh nghiệp, thủ tục đầu tư, tiếp cận điện năng… Môi trường kinh doanh có bước được cải thiện, huy động và sử dụng ngày càng tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới tăng 13,9%, vốn đăng ký bình quân mỗi doanh nghiệp tăng 24,6%; số doanh nghiệp hoạt động trở lại tăng 5,1%.[8]
Môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh cải thiện còn chậm. Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc. Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Doanh nghiệp còn khó tiếp cận vốn tín dụng. Năng lực tài chính và quản trị của phần lớn doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước giảm.[10]
Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế được tích cực triển khai thực hiện. Tăng cường quản lý, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách và đẩy mạnh tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Đẩy mạnh thực hiện Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Cơ bản hoàn thành tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, giảm 7 tổ chức tín dụng, năng lực tài chính của ngân hàng thương mại tăng lên, an toàn hệ thống được bảo đảm. Đã xử lý 53,6% tổng số nợ xấu được xác định trong Đề án bằng thu hồi nợ, tái cơ cấu nợ, sử dụng dự phòng rủi ro và mua lại nợ xấu qua Công ty quản lý tài sản (VAMC).[11]
Đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Thực hiện các chính sách hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển chăn nuôi, khai thác nuôi trồng thủy sản, trồng rừng gỗ lớn và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa nông nghiệp. Nhân rộng các mô hình cánh đồng lớn, dồn điền đổi thửa, liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh. Phong trào xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, đến cuối năm 2014 dự kiến có khoảng 790 xã hoàn thành 19 tiêu chí (chiếm 8,8%).[13]
Tái cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp. Tốc độ đổi mới công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm. Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo và tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP còn thấp so với các nước trong khu vực. Doanh nghiệp trong nước chưa tham gia được nhiều vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới chưa đạt mục tiêu đề ra. Tái cơ cấu đầu tư công một số nơi triển khai chậm, nợ đọng xây dựng cơ bản vẫn còn lớn; việc thu hút đầu tư ngoài nhà nước vào phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Vẫn còn một số tổ chức tín dụng yếu kém. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiệu quả chưa cao. Hiệu quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.[15]
Tích cực triển khai Kế hoạch thi hành Hiến pháp, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và Nghị quyết 67/2013/QH13 của Quốc hội. Tập trung ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền dân chủ của người dân.
Tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Cải cách hành chính được đẩy mạnh và đạt những kết quả tích cực. Đã hoàn thành việc quy định chức năng nhiệm vụ của các Bộ ngành, khắc phục cơ bản tình trạng chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ trong quản lý nhà nước. Triển khai thực hiện Đề án cải cách chế độ công vụ công chức. Tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công khai chỉ số cải cách hành chính, chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ ngành và địa phương. Đẩy mạnh thực hiện hành chính điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia. Tinh thần trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước có bước được nâng lên.[17]
Tiếp tục thực hiện chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao, sản phẩm quốc gia và chương trình chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Các quỹ quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ đi vào hoạt động, bước đầu phát huy hiệu quả. Mở rộng áp dụng cơ chế đặt hàng, cơ chế khoán thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Phát triển thị trường công nghệ, dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định và phản biện. Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ.[18]
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa thật sự là khâu đột phá cho phát triển kinh tế xã hội. Cải cách hành chính và hoàn thiện hệ thống luật pháp chưa theo kịp yêu cầu. Kỷ luật kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Hiệu quả công tác kiểm tra thanh tra còn hạn chế. Chưa có chính sách đủ mạnh để phát triển nhanh và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao. Chất lượng giáo dục đại học và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa đạt chỉ tiêu đề ra, lao động có chứng chỉ, bằng cấp còn thấp. Ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm. Nguồn lực đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước, thiếu vốn đối ứng thực hiện các dự án ODA và dự án hợp tác công – tư. Mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu vận tải đa phương thức. Dịch vụ logistics phát triển chậm, tính đồng bộ chưa cao. Chưa chú trọng và chưa có cơ chế tạo đủ nguồn lực để bảo trì các công trình kết cấu hạ tầng. Nhiều công trình thủy lợi, giao thông xuống cấp trầm trọng. Hạ tầng ở các đô thị chưa đồng bộ, nhiều công trình quá tải, chất lượng thấp.
Tổng rà soát chính sách, thực hiện trợ cấp ưu đãi thường xuyên cho trên 1,5 triệu người và hoàn thành việc xây mới, sửa chữa khoảng 48 nghìn căn nhà cho người có công, trong đó có 13.500 căn nhà từ nguồn xã hội hóa. Công tác xác định hài cốt liệt sỹ, giải quyết hồ sơ tồn đọng được quan tâm chỉ đạo. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong xã hội được đẩy mạnh.
Thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững, quan tâm hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản và đầu tư phát triển hạ tầng ở những địa bàn đặc biệt khó khăn. Các chính sách nhà ở tránh lũ, nhà ở cho người nghèo, người thu nhập thấp được quan tâm. Thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả năm giảm khoảng 1,8 – 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%. Trên 2,6 triệu người hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên. Trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số và ở vùng khó khăn được hỗ trợ chi phí học tập, sinh hoạt. Triển khai kịp thời các hoạt động cứu trợ đột xuất và khắc phục hậu quả thiên tai.[21]
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Tiếp tục đầu tư xây mới và nâng cấp mở rộng nhiều bệnh viện; riêng tuyến Trung ương tăng thêm 1.200 giường bệnh. Tình trạng quá tải ở nhiều bệnh viện được cải thiện. Tích cực cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian chờ đợi khám và chữa bệnh; xử lý kịp thời hơn phản ánh của người bệnh thông qua đường dây nóng. Chú trọng công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh. Phát triển y tế biển đảo. Khuyến khích phát triển y tế ngoài công lập. Tăng cường quản lý giá, chất lượng thuốc chữa bệnh và kiểm tra các cơ sở y tế. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 72%. Thực hiện tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Từng bước điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo lộ trình.
Quan tâm thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số; tổng rà soát việc thực hiện và đã ban hành Chỉ thị nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Chú trọng nâng cao hiệu quả công tác đối với người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ.[23]
Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tăng cường quản lý nhà nước, quan tâm đầu tư, khuyến khích xã hội hóa trong phát triển sự nghiệp văn hóa, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao và đã đạt được những kết quả tích cực. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế được đẩy mạnh. Gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nhiều di sản văn hóa được công nhận là di sản quốc gia và thế giới. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của pháp luật.
Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư còn lớn. Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư nông thôn, vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. Số người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn lớn, nhất là trong thanh niên. Nợ và chậm đóng bảo hiểm xã hội còn nhiều. Nguồn lực bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp xã hội còn hạn hẹp. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều khó khăn. Quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, thể thao, thông tin truyền thông nhiều mặt còn hạn chế. Chưa bảo đảm tốt an ninh, an toàn mạng. Tệ nạn xã hội nhiều nơi còn phức tạp.[25]
Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương, rà soát và hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tăng cường kiểm tra thanh tra, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và vi phạm pháp luật về môi trường. Các chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, ứng phó với biến đổi khí hậu được tích cực triển khai thực hiện. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn, cảnh báo, dự báo thiên tai, bão, lũ, được tăng cường. Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng tránh thiên tai được triển khai. Ý thức và năng lực phòng tránh thiên tai được nâng lên. Nhiều chỉ tiêu quan trọng về môi trường đạt kết quả tích cực.[27]
7. Về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động về phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tăng cường quản lý kinh tế, ngân sách nhà nước và tài sản công; cải cách thủ tục hành chính; kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; kê khai và kiểm soát kê khai tài sản; thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được đưa ra xét xử.[28]
Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về phòng chống tham nhũng, lãng phí có mặt còn chậm. Việc thực hiện các giải pháp phòng chống tham nhũng tại nhiều cơ quan chưa hiệu quả. Một số vụ án xử lý chậm. Công tác kiểm tra thanh tra hiệu quả chưa cao. Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp. Công tác giám định tư pháp còn bất cập. Lãng phí thời gian và nguồn lực trong xã hội còn lớn. Trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của một số ngành, địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Khiếu kiện liên quan đến đất đai vẫn còn nhiều.
Trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tăng cường, đã triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm. Kiên quyết ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, khẩn trương ổn định tình hình, thực hiện hỗ trợ phù hợp cho người lao động và các doanh nghiệp bị thiệt hại sớm trở lại sản xuất kinh doanh bình thường trong vụ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển nước ta. Trật tự, an toàn giao thông được tập trung chỉ đạo quyết liệt; số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương tiếp tục giảm.[30]
Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức. Nhu cầu đầu tư cho quốc phòng an ninh rất lớn nhưng nguồn lực còn rất hạn hẹp. Trật tự an toàn xã hội có mặt còn bức xúc, tình hình tội phạm nhiều nơi còn phức tạp. Tai nạn giao thông còn ở mức cao. Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động và hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế chưa cao. Việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh và tham gia hoạt động khoa học công nghệ kết quả còn hạn chế.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2015
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
II. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
2. Về xã hội:
3. Về môi trường:
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1.1. Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô
Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khoá, kiểm soát tốt lạm phát. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp với yêu cầu tăng trưởng gắn với bảo đảm chất lượng tín dụng. Ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối, tăng dự trữ ngoại tệ và bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam. Thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh.
Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước; tập trung chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá; triệt để tiết kiệm chi ngân sách, không tăng chi thường xuyên ngoài lương; bảo đảm bội chi theo kế hoạch. Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo đảm nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn theo quy định.[33]
Tăng cường huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đa dạng hóa các kênh huy động vốn, các hình thức đầu tư. Có cơ chế phù hợp để tăng tính thương mại của các dự án, khuyến khích đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
1.2. Tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh
Thực hiện các biện pháp phù hợp để tăng tổng cầu và hỗ trợ phát triển thị trường. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư, tập trung vào các công trình quan trọng, cấp bách. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng. Quan tâm phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tập trung chỉ đạo và có biện pháp cụ thể đối với từng Bộ ngành, địa phương để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng nhanh công nghệ thông tin, tạo thuận lợi tối đa, giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp trong các lĩnh vực thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, đất đai, xây dựng, thành lập, giải thể và phá sản doanh nghiệp, thực hiện đầu tư, tiếp cận điện năng…
BÀI MỚI ĐĂNG
Không khí lạnh tăng cường, miền Bắc rét đậm, rét hại dịp Tết Dương lịch 2025
Bổ nhiệm Thiếu tướng Đinh Quốc Hùng giữ chức Chính ủy Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
Đại tướng Nguyễn Quyết, nguyên phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước từ trần
Ba cựu phó giám đốc sở hầu tòa vụ “chuyến bay giải cứu” giai đoạn 2
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự khánh thành dự án tái thiết 3 khu dân cư Làng Nủ, Nậm Tông và Kho Vàng
Tròn 80 năm quân đội ra đời: Bản hùng ca bất hủ trong thời đại Hồ Chí Minh