Theo một số chuyên gia văn hóa, việc chọn ngày làm lễ hóa vàng (còn gọi lễ tạ năm mới) tùy thuộc vào mỗi gia đình, thường từ mùng 3 đến khoảng mùng 10 Tết Nguyên đán.
Trước đây, người dân chọn làm lễ hóa vàng vào ngày mùng 7 tháng Giêng nhưng hiện nay các gia đình đã thay đổi, không nhất thiết phải làm vào ngày này.
Sau khi lễ, các gia chủ sẽ hóa vàng. Phần tiền, vàng của gia thần phải hóa trước, tiền vàng, đồ dùng của tổ tiên hóa sau.
Đại đức Thích Giác Nguyên (Nam Định) thông tin trên tờ Lao Động: “Ý nghĩa quan trọng của lễ tạ năm mới là bày tỏ lòng biết ơn của gia chủ đến chư Phật, thần linh, gia tiên… đã luôn yểm trợ, phù hộ cho gia chủ trong một năm qua.
Nhưng ý nghĩa quan trọng nhất là “hồi hướng” đến các chư vị trên (Đức Phật, thần linh, gia tiên…).
Tức là đem các công đức của gia chủ đã tu được trong đời sống hằng ngày, để xoay cái nhân được hưởng phước báo gom về sự vãng sinh Tây Phương cực lạc thế giới, nhằm mục đích liễu sinh thoát tử, cho đến rốt ráo thành Phật trong tương lai”.
Sau khi hóa vàng, người ta thường đổ chén rượu cúng vào đống tro với ý nghĩa là để đồ cúng của gia chủ được chuyển đến đúng người nhận.
GS sử học Lê Văn Lan chia sẻ trên một tờ báo, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới bên kia sống gần với dương gian.
Tục này nhằm cung cấp cho người đã khuất tiền, quần áo (giấy), gậy đi đường (cây mía).
Mùng 3 vẫn là ngày Tết thầy, nên để tổ tiên vẫn ở lại ăn Tết với con cháu. Mùng 4 và mùng 5 mới là ngày tiễn các cụ về cõi vĩnh hằng.
Sắm lễ:
Lễ vật dâng cúng trong lễ hóa vàng (lễ tạ năm mới) gồm: Nhang, hoa, ngũ quả, trầu cau, rượu, đèn nến, bánh kẹo, mâm lễ mặn hoặc chay cùng các món ăn ngày Tết đầy đủ, tinh khiết.
Dưới đây là hai bài văn cũng, khấn trong lễ hóa vàng được sử dụng phổ biến nhất:
Văn khấn lễ hóa vàng
– Nam mô A-di-đà Phật (3 lần)
– Con kính lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương
– Con kính lạy Hoàng Thiên, Hậu Thổ, Long Mạch, Táo Quân, chư vị tôn thần
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu thổ. Chư vị Tôn thần
– Con kính lạy Ngài Đương niên hành khiển, ngài Bản cảnh Thành Hoàng, các ngài Thổ địa, Táo quân, Long mạch Tôn thần.
– Con kính lạy các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, nội ngoại tiên linh.
Hôm nay là ngày mùng 3 tháng Giêng (hoặc ngày mà gia chủ chọn để hóa vàng) năm …………………
Chúng con là: ……………………………tuổi………………
Hiện cư ngụ tại ……………………………………………….
Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, cung bày trước án. Kính cẩn thưa trình: tiệc xuân đã mãn, Nguyên đán đã qua, nay xin thiêu hóa kim ngân, lễ tạ Tôn thần, rước tiễn âm linh trở về âm cảnh.
Kính xin lưu phúc, lưu ân, phù hộ độ trì dương cơ âm trạch, mọi chỗ tốt lành, con cháu được bách sự như ý, vạn sự bình an, tài lộc song toàn, gia đạo hưng vượng.
Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám.
Nam mô A-di-đà Phật (3 lần)
(Nội dung bài khấn được trích theo Văn khấn cổ truyền Việt Nam)
Bài văn cúng, khấn lễ hóa vàng khác được nhiều người sử dụng
Hôm nay ngày….
Tức năm thứ….. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tại: Thôn… xã… huyện… tỉnh….
Tín chủ là:…… cùng toàn gia kính bái.
Nay nhân ngày lễ tạ.
Kính cẩn sắm một lễ gồm….
gọi là lễ mọn lòng thành, kính dâng lên:
Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, bản gia tiên sư, bản viên thổ công, liệt vị tôn thần.
Trước linh vị của:
Hiển:
Hiển:
Hiển:
…
Và các vị tổ bá, tổ thúc, tổ cô, cùng các vong linh phụng thờ theo tiên tổ.
Kính cẩn thưa rằng:
Tiệc xuân đã mãn
Lễ tạ kính trình
Rước tiễn tiên linh
Lại về âm giới
Buổi đầu năm mới
Toàn gia mong đợi
Lưu phúc lưu ân
Kính cáo tôn thần
Phù trì phù hộ
Dương cơ âm mộ
Mọi chỗ tốt lành
Con cháu an ninh
Vận hành khang thái.
Cẩn cáo!
Ghi chú:
– Đối với bàn thờ chung cho cả gia thần và gia tiên thì khấn gia thần trước, gia tiên sau. Nếu thờ gia thần ở bàn thờ riêng thì tách riêng ra hoặc thắp hương trước, rồi khấn chung một lượt ở gian chính thờ gia tiên.
(Nội dung bài khấn trích theo Tập văn cúng gia tiên – Nhà XB Văn hoá Dân tộc)
(Tổng hợp)