Báu vật chuyền tay và chuyện của các Cố đạo
Theo lời của những cao niên của làng Phú Hòa thì những vật báu này đã được gìn giữ trong làng gần 130 năm. Điều đặc biệt là người dân bảo tồn vật báu bằng cách: Chuyền tay nhau. Lệ làng quy định, nếu không có gì thay đổi thì 2 năm 1 lần, làng sẽ làm lễ chọn Cố đạo mới giữ cổ vật. Công việc yêu cầu tuyển “nhân sự” cũng khá khắt khe: Cố đạo phải là người làng liêm khiết, cẩn thận, con cháu hiếu thảo và vợ… còn sống (!). Người giữ chức “Cố đạo” không chỉ nhận được sự tín nhiệm của dân làng mà phải được sự “chấp thuận” từ các vị thần linh. Để chọn được một Cố đạo, làng chọn ra ba cụ xứng đáng nhất. Khi đã có “ứng cử viên”, làng tổ chức sắm lễ bao gồm: Hương, hoa, quả, phẩm, trà, tửu để làm lễ Hạ Nguyên (Hạ Keo). Sau ba lần xin quẻ cho mỗi ứng viên, ai được sự đồng thuận nhất của thần linh thì làm Cố đạo (đạo chủ). Lúc đó các báu vật và bàn thờ vua Hàm Nghi sẽ được chuyển về nhà Cố đạo mới. Nếu thánh thần đã “ứng chứng” nhưng chưa “ứng chức” thì Cố đạo cũ tiếp tục công việc. Chính vì tính nghiêm trang và sự tuyển chọn khá nghiêm ngặt về luật lệ và tâm linh mà ai được bầu làm Cố đạo đều được làng tôn vinh và quý trọng như già làng ở Tây Nguyên vậy.
Chúng tôi tìm đến nhà Cố đạo Lê Khắc Tùng để tìm hiểu kĩ câu chuyện. Cụ Lê Khắc Tùng đã gần 80 tuổi, da dẻ đỏ au, khuôn mặt phúc hậu. Nhà cụ Tùng có vườn rộng, cây cối sum suê, đặc biệt là có cả một rặng cau cao vút.
Cụ Lê Khắc Tùng rót rượu mời chúng tôi ngay trong ngôi nhà nhỏ vách gỗ lợp ngói đã ngả màu rêu có gian thờ vua Hàm Nghi ở giữa, trên bàn thờ có di ảnh của Ngài. Báu vật của vua Hàm Nghi được cất cẩn thận trong két sắt. Ngày trước, các cụ còn khoét cả cột nhà gỗ (Hương Khê vốn là vùng rừng nhiều gỗ, các cây gỗ cột nhà thường có đường kính rất to), báu vật được luồn vào trong ốp gỗ lại, trát nhựa thông ngoài cùng màu gỗ liền phẳng không còn dấu vết.
Phải có duyên mới được xem báu vật
Để tận mắt xem và chụp ảnh được các báu vật, chúng tôi phải đưa cả thẻ nhà báo và giấy tờ thủ tục hành chính, lại phải liên hệ có người của Phòng Văn hóa huyện dẫn đi. Bởi két sắt phải có mấy lần chìa khóa mới mở được, trong đó UBND huyện giữ 1 chìa, cụ Cố đạo giữ chìa kiểu khác. Để mở két báu vật hay không phải tiến hành làm lễ “xin keo”. Cụ Cố đạo thay bộ quần áo lễ, đánh một hồi chuông, ba hồi trống rồi ngồi xuống chiếu gõ mõ và vái lạy sau đó mới xin quẻ. Có nhiều đoàn kể cả cán bộ lãnh đạo cất công về đây, khi vào làm thủ tục xin quẻ 3 lần không được chấp thuận thì đành phải quay về vì luật lệ “tâm linh” đã có như thế từ lâu. Thật may mắn chúng tôi có duyên được cho xem báu vật sau khi xin quẻ ứng thuận.
Cụ Lê Khắc Tùng và một vài láng giềng trải chiếc khăn đỏ lên bàn giới thiệu cho chúng tôi từng loại báu vật: Trong hộp thiếc ba con voi hiện ra, 2 vàng và 1 đồng. Voi bằng đồng được đúc theo tư thế voi đang lâm chiến, vòi dài uốn cong vào tai phải, đuôi quặt mông cùng chiều bên phải, áp tai sát cổ, ngà cụt. Thân hình voi gầy, toàn thân lấm chấm lông. Voi vàng tạc theo tư thế đứng nhàn nhã, vòi buông thẳng, ngà nhọn, mặt tròn có nịt cổ và mang ngai vàng trên lưng. Ba con voi tuy kích thước nhỏ, con lớn nhất cao 4cm, lưng rộng 2,5cm; con nhỏ nhất cao 2,5cm, dài 3cm, lưng rộng 1cm nhưng đều toát lên dáng vẻ uy nghi vì nét chạm trổ sinh động. Chỉ với nghệ thuật chạm trổ tinh xảo như vậy, 3 con voi đã xứng danh là báu vật quốc gia chưa nói đến giá trị lịch sử.
Báu vật còn có nghê đồng và chuỗi lục lạc 35 cái gắn màn gấm cho vua Hàm Nghi. Cụ Lê Khắc Tùng bảo: Sở dĩ có gắn lục lạc để phòng an ninh khi có kẻ đột nhập lật màn lập tức lục lạc kêu báo động cho quân cảnh vệ. Đã bao nhiêu năm trôi qua, màu đồng nguyên chất đã phai của từng hạt lục lạc nhưng lạ thay những bộ áo mũ triều thần, đặc biệt là hai chiếc áo Hoàng bào, chiếc áo lót của đức vua vẫn nguyên màu vàng tươi.
Cố đạo Lê Khắc Tùng lấy ra 37 đạo sắc phong rực rỡ hoa văn. Trong những sắc phong ấy có sắc phong của chính vua Hàm Nghi phong thần cho “Hầu công kiến quốc nguyên Huân Dương chính tướng quân” ghi rõ: Hàm Nghi nguyên niên cửu nguyệt, nhị thập ngũ nhật, tức là ngày 25 tháng 9 năm 1885. Vậy là 128 năm trôi qua, ngày đó giữa muôn trùng gian khó giữa rừng sâu bủa vây quân thù nhưng vua vẫn không quên những tấm lòng tận tụy vì nước vì dân mà ban sắc phong này cho Dương tướng công- vị tướng trấn ải biên cương Tổ quốc thời Lê!
Những huyền tích “chết người”
Thấy chúng tôi băn khoăn trước gian nhà đơn giản không xây tường gạch kiên cố, cổng vào ra chắn bằng tấm tre đan, Cố đạo lại già, cụ Tùng cười: “Không lo chi mô, hàng đêm tôi vẫn ngủ ở đây để giữ quí vật đó”. Nói rồi cụ Tùng kể câu chuyện được lưu truyền ở đây như một huyền thoại mà có thật: “Không ai dám lấy báu vật, lấy là chết đó! Này nhé, năm 1936, một trong hai con voi vàng bị Lê Yêm, con trai của Cố đạo Lê Triết giữ báu vật mang sang Lào bán để lấy tiền mua đàn bò. Trên đường trở về, Lê Yêm bị một con bò húc vào bụng chết ngay tại chỗ, kẻ đồng mưu với Lê Yêm là Lưu Duyên ở nhà bỗng nhiên phát điên. Gia đình người Lào cũng gặp họa, sau khi biết được tin này hoảng sợ, làm lễ mang voi vàng trả lại cho dân làng Phú Gia”. Ngoài 2 con voi vàng ròng, còn nhiều báu vật vô giá khác mà đặc biệt là hai thanh kiếm màu đồng nung, lưỡi trắng, ngoài vỏ đề hai chữ “Phụng tự”.
Chia tay với ông bà cụ Cố đạo Lê Khắc Tùng và những người dân láng giềng của cụ ở ngôi nhà đơn sơ “bảo tàng của lòng dân” giữ báu vật của vua Hàm Nghi, chúng tôi nhớ mãi hai câu thơ Đường luật của cụ Lê Khắc Tùng trong bài “Bạn và thơ”: “Sông Tiêm ấp ủ lòng thương nhớ – Ngàn Trụ ân tình dạ vấn vương”. Một tâm hồn thơ thắm thiết hồn quê và sâu thẳm là đức tin vào cội nguồn dào dạt như thế xứng đáng là người thay mặt dân làng gìn giữ báu vật, gìn giữ hồn làng hồn nước cho các thế hệ mai sau.
Nguyễn Ngọc Phú – Quốc Huy
Gia Đình