Nhưng với những ngư dân làng biển Xuân Hội (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) không ai là không yêu biển… Biển chính là “kho bạc” khổng lồ và cũng là nơi thử sức, thử tài, thử lòng kiên nhẫn của ngư dân để khai thác ngư trường, tìm nguồn cá, tôm, ổn định và phát triển cuộc sống từng gia đình làng biển.
Già rồi nhưng vẫn thích đi biển
Có lẽ hơn mười lăm năm rồi, tình cờ trong chuyến đi công tác này tôi gặp lại ông Nguyễn Anh Vựng tại trụ sở UBND xã Xuân Hội. Ông Vựng ôm chầm lấy tôi, đôi mắt đầy xúc động. Sau vài phút hàn huyên ông bảo: “Bài chú viết về tôi đăng trên báo dạo nọ, hiện giờ tôi vẫn còn lưu giữ trong tủ. Thỉnh thoảng rỗi thời gian tôi lại giở ra xem…”. Lời tâm sự ấy khiến tôi ngạc nhiên bởi tôi làm sao nhớ nổi. Nhưng với riêng ông chỉ một lời động viên của báo chí vẫn mãi được ông trân trọng. Bất chợt những ký ức về ông Vựng thời trẻ và khí thế làm ăn của Hợp tác xã đánh cá Hùng Cường hồi đó lại ùa về… Vào tháng 8-1987, ông Nguyễn Anh Vựng làm Chủ nhiệm Hợp tác xã đánh cá Hùng Cường, một trong những hợp tác xã làm ăn thịnh vượng nhất miền bắc hồi đó. Ông quản lý 20 đội thuyền nghề vó ánh sáng, mặc dầu thuyền lúc đó nhỏ, công suất không lớn, nhưng bằng kinh nghiệm đánh bắt cổ truyền, cho nên các đội thuyền của ông Vựng bao giờ cũng “dò đúng” theo luồng cá đi… Biển cả bao la, chỉ có tình biển và khát vọng cánh chim hải âu, giúp cho những ngư dân đùm bọc nhau hơn, sống nghị lực hơn để có thêm nhiều mẻ cá bạc đầy ắp phiên chợ chiều và xuất khẩu đến với những thị trường quốc tế… Cơ chế bao cấp, Nhà nước rót dầu cho các đội thuyền hợp tác xã đánh bắt, rồi nộp sản phẩm theo kế hoạch cho ngành thủy sản. 20 đội thuyền vó của ông Nguyễn Anh Vựng lúc đó trở thành “lá cờ đầu” với sản lượng đánh bắt hàng trăm tấn cá, bao giờ cũng vượt sản lượng và về đích trước thời gian. Chủ nhiệm Nguyễn Anh Vựng được bầu là đại biểu Quốc hội, Hợp tác xã đánh cá Hùng Cường được Chủ tịch nước tặng lẵng hoa. Thế nhưng, gặp được Chủ nhiệm HTX đánh cá Hùng Cường thời ấy thật không dễ, bởi ông không có thời gian, hễ đưa cá về nhập xong là ông lại vội vã ra khơi cùng với bạn thuyền. Tôi phải nhờ một người quen rồi lên thuyền ra khơi cùng ông, sau một đêm chòng chành trên sóng, mới thực hiện được bài viết theo tinh thần chỉ đạo của tòa soạn. Ông Vựng xởi lởi: “Nhanh quá chú hè! Tui năm ni đã 67 tuổi rồi, cũng mừng là con cái làm ăn được. Không đi khơi nữa nhưng tui vẫn đi lộng câu mực”. Bác Liệu, đứng cạnh phụ họa thêm: “Tiếng ông Vựng gầy gầy rứa nhưng sức còn dẻo dai lắm, đêm mô cũng đi câu”. Theo bác Liệu, đối với tập quán ngư dân Xuân Hội, lòng đam mê nghề nghiệp không kể chi trẻ già, trừ những người ốm đau nằm dính chiếu chứ còn sức còn ra biển… Nhiều cụ già Xuân Hội ngoài 70 tuổi đêm đêm vẫn giong thuyền nhỏ, đỏ đèn, giăng lưới đánh cá, câu mực. Các cụ kháo nhau rằng: “Ðời chẳng có gì khoái bằng câu được con mực to, luộc lên ăn tại chỗ trên thuyền, nhâm nhi chén rượu quê. Lúc đó cái lưng đỡ mỏi, bắp chân săn hơn…”.
Chiều nay, tôi thong thả dạo trên bãi biển Xuân Hội, bãi biển vẫn êm đềm, đài thông báo ” trời tiếp tục trở rét” nên biển không có nắng. Chỉ có những chiếc thuyền hoang phế, mục nát đang nằm úp trên bãi ngủ quên. Một bà lão tên là Chương, ở xóm Hội Thủy, lưng đã còng bận đồ đen đang mải mê cầm chiếc cuốc nhỏ đào xới những khoảng cát nằm gần chân sóng. Khi sóng tiến lại gần bà dừng lại, sóng quay đi bà lại đào. Tôi đến gần, cất tiếng chào hỏi, bà vui vẻ trả lời khách và chỉ cho tôi xem cái rổ mà bà đang đựng những con dắt biển. Bà bảo: “Nghề cào dắt nhẹ nhàng khỏe hơn dân đi hến ở sông nhiều, người nào siêng mỗi ngày cũng cào được 5 kg,
mỗi ký đưa ra chợ bán được khoảng từ 13 nghìn đến 15 nghìn đồng”. Ði dọc bãi biển quan sát, thấy số phụ nữ cào dắt rất đông. Một chị trạc 40 tuổi đang hướng dẫn đứa con trai cùng cào dắt với mẹ. Trên một bãi cát khác, ba, bốn con thuyền chụm sát bên nhau, một nhóm đàn ông mặc quần áo cộc xúm xít vá lưới. Họ đang tranh thủ từng giờ, từng phút và cầu mong ngày mai trời hửng để lại giong thuyền, tung lưới.
Dặm đường khơi mới
Ðồng chí Bí thư kiêm Chủ tịch UBND xã Xuân Hội Võ Văn Tùng bộc bạch: Thời bao cấp ngư trường dồi dào tôm cá hơn. Chính ông cũng từng là một đội trưởng đội thuyền, lúc thắng đậm một ngày đi khơi bắt được cả tấn cá. Nhưng giai đoạn chuyển đổi từ bao cấp sang thị trường, làng cá Xuân Hội cũng có những bước thăng trầm. Nhất là thời điểm năm 1998, Chính phủ có chủ trương hỗ trợ vốn cho ngư dân sắm phương tiện, tàu, thuyền đánh bắt xa bờ. Riêng xã Xuân Hội, Nhà nước trang bị cho tám đội tàu, mỗi đội tàu giá trị lên tới 2,3 tỷ đồng. Cứ tưởng là “ăn to, mở nậy” nhưng rốt cuộc chỉ trong một thời gian ngắn “tàu xa bờ lại đắp chiếu nằm bờ”, Nhà nước mất vốn, ngư dân đói ăn. Nguyên nhân thất bại không cần nói ra thì ai cũng biết đó là do kinh nghiệm đánh bắt xa bờ còn quá non nớt, phương tiện lại sử dụng bằng tiền Nhà nước, kiểu “cha chung không ai khóc”. Từ bài học đau xót ấy, những ngư dân làng Xuân Hội bắt đầu tìm cách tự cứu lấy mình. Họ quyết không thể để những con thuyền biến thành cục sắt gỉ. Thế rồi được Nhà nước định lại giá những con thuyền đã qua sử dụng, các đội thuyền như Nguyễn Quang Vinh, Lê Văn Thông, Lê Hồng Ngọ, Hoàng Hồng (xóm Hội Thủy), Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Văn Hồng, Trần Quốc Rạng (xóm Hội Long), Hoàng Văn Hùng (xóm Hội Tiến) đôn đáo vay tiền ngân hàng, tiền người thân để quyết tâm vực lại những gì đã mất. Năm 2000, năm mở đầu thiên niên kỷ mới, những đội thuyền của ngư dân trẻ lại chọn ngày lành tháng tốt, giong thuyền cưỡi sóng ra khơi. Bây giờ cả xã Xuân Hội đã có 13 đội thuyền, mỗi đội thuyền có từ 18 đến 20 lao động, mỗi lao động thu nhập từ 50 triệu đồng đến 70 triệu đồng/năm, chủ thuyền thu nhập từ 500 triệu đồng đến 700 triệu đồng/năm.
Theo chân anh Luật, cán bộ Phòng Thủy sản huyện Nghi Xuân, xuống đội thuyền của anh Trần Văn Dũng. Phải vất vả từng động tác trườn qua dây neo, co chân nhảy từ thuyền này sang thuyền khác, tôi mới tiếp cận được thuyền của anh Dũng. Người chủ thuyền đứng trước mặt tôi năm nay mới 30 tuổi, đã có vợ và hai con. Anh có nước da đen, khuôn mặt hiền lành. Dũng thật thà kể cho tôi biết gia đình anh thời ông nội đã nổi tiếng là ngư dân đánh bắt cá giỏi trong làng Xuân Hội, rồi đến đời cha anh cũng thế. Hơn bảy năm trong nghề, được sự tin cậy của cha và chú, Dũng được giao làm thuyền trưởng khai thác xa bờ. Nhờ vậy, anh đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm từ kỹ thuật khai thác đánh bắt đến thông thạo kỹ thuật các ngư trường. Từ năm 2003 đến nay, đội thuyền của Dũng chuyển hướng đánh bắt xa bờ bằng nghề kéo dạ đôi, nghề mới này khiến anh cảm thấy yên tâm vì đỡ phí xăng, dầu mà sản lượng thu hoạch khá hơn. Ðể trở thành chủ thuyền, Dũng cho rằng, nếu chỉ có kỹ thuật đánh bắt và đức tính cần cù thì chưa đủ, còn phải biết tiết kiệm từng đồng tiền nhỏ để góp lại thành đồng tiền to. Dù nhà cửa gia đình còn đơn sơ, nhưng vợ chồng anh dốc toàn bộ vốn liếng vay mượn thêm tiền ngân hàng và bà con. Khi có đôi thuyền lớn với công suất 450 CV, trị giá 3,5 tỷ đồng, Dũng tiếp tục tuyển thêm 12 thuyền viên mới, trẻ, khỏe, nhiệt tình. Mỗi lần chuẩn bị ra khơi, các thuyền viên trên thuyền của anh được chăm sóc chu đáo. Bây giờ, các thuyền viên đội thuyền của anh Dũng ai cũng thành thạo nghề dạ cá nổi cao tốc (với vận tốc từ 4 đến 4,5 hải lý/giờ). Cũng nhờ có hai chiếc thuyền công suất lớn này, đội đánh cá của anh Dũng có điều kiện vươn xa hơn tại các ngư trường lân cận, có lúc thuyền của anh đi khơi bốn, năm ngày mới về một lần. Từ năm 2010 trở lại đây, năm nào sản lượng đánh bắt cá của đội anh cũng đạt từ 450 tấn đến 550 tấn. Chất lượng cá không bao giờ bị khách hàng chê, chỉ hiềm một nỗi vài năm trở lại đây, giá xăng, dầu quá đắt đỏ, cho nên phần lãi thu về không lớn. Nhưng trừ hết chi phí nguyên liệu và trả công sòng phẳng cho các thuyền viên, gia đình anh cũng thu về mỗi năm khoảng từ 550 đến 600 triệu đồng. Chính vì thế, ông chủ thuyền trẻ này được nhiều người tin tưởng.
Sức sống mới trên làng chài
Xã Xuân Hội hiện có 1.630 gia đình với diện tích tự nhiên gần 1.100 ha, nhưng do điều kiện tự nhiên đất ngập mặn và đất cát bạc nhiều, cho nên chỉ có 8% số dân làm nông nghiệp. Cả làng “cơm, áo, gạo, tiền” gia đình trông cậy vào chiếc vó của cha và anh. Gần như công việc của những người phụ nữ ở Xuân Hội là chăm lo bếp núc, nuôi dạy con cái rồi làm những dịch vụ trên bờ như nướng cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm và chạy chợ. Tuy là làng biển nhưng Xuân Hội văn minh hơn nhiều làng biển khác. Nhà cửa các gia đình liền kề, dân cư san sát, nhưng không gây ô nhiễm môi trường. Làng ở sát thành phố, thị tứ, nhưng không có thanh niên nào vướng vào tệ nạn xã hội. Người dân Xuân Hội đâu chỉ biết lo cái ăn, cái mặc, họ còn lo “cái chữ” cho con. Theo họ, con người muốn hiểu biết sâu rộng về xã hội và muốn làm giàu được thì phải biết trang bị cho mình tri thức từ nhà trường và sách báo, phải sớm tham gia lao động và có kỹ năng lao động mới nên người. Tất cả lớp trẻ Xuân Hội đều tìm kiếm được việc làm bằng đi biển, đi lao động xuất khẩu, học nghề. Hiện tại, Xuân Hội có hơn 700 lao động tham gia xuất khẩu ở nước ngoài. Nguồn lực này đã góp phần để làng biển giàu hơn, để cha mẹ yên tâm bám biển.
Ðã mấy mùa rồi người dân làng cá Xuân Hội không phải lo chạy bão nữa, bởi con đê Hội Thống đã trở thành “chiến lũy” ngăn bão tố, triều cường. Thuyền trưởng Ðặng Ngọc Hoa cho biết: “Từ khi xây dựng được quai đê chắn sóng, dân làng ăn ngon, ngủ yên hơn, sắp tới lại hoàn thành cảng cá nữa, lúc đó các dịch vụ tại cảng lại rầm rộ hơn”. Tôi ngước mắt nhìn ra biển rộng, biển vẫn xanh thăm thẳm, làng chài đang dạt dào lên sức sống từ biển.
Ðội tàu của anh Trần Văn Dũng xã Xuân Hội, Nghi Xuân (Hà Tĩnh) được đầu tư gần bốn tỷ đồng, đang chuẩn bị ngư cụ để ra khơi.
Ngư dân vá lưới chuẩn bị cho chuyến đi biển sau.
Bài và ảnh: PHAN THẾ CẢI
Nhân Dân