Các học viên của Ayurvedic và Y học cổ truyền Trung Quốc đã sử dụng và tài liệu hạt methi cho nhiều ứng dụng y học của nó. Gia vị này được xuất khẩu theo các hình thức của nó và cả dạng bột cũng như dạng chiết xuất dầu được sử dụng rộng rãi như là thảo dược bổ sung, các ứng dụng điều trị, ẩm thực, trà, nước hoa và nhuộm. Các nhà nhập khẩu chính của methi ở Ấn Độ là Ả Rập Saudi, Nhật Bản, Malaysia, Mỹ, Anh, Singapore và Sri Lanka.
Ở Ấn Độ, hạt chủ yếu được sử dụng bởi người bản địa với tác dụng như là gia vị và y học. Nó được sử dụng bởi những người Ai Cập để làm thuốc nhuộm màu vàng, cao và thuốc đắp. Bột nhão của hạt đã được sử dụng để điều trị sốt, bệnh tiểu đường và đau dạ dày. Y học cổ truyền Trung Quốc sử dụng nó cho các bệnh về thận và các bệnh ảnh hưởng đến đường sinh sản nam giới. Tại các khu vực khác nhau của Bắc Phi phụ nữ được khuyên dùng bột nhão của hạt methi ăn kết hợp với đường và dầu ô liu để giúp tăng cân.
Thành phần của hạt methi
Hạt methi có chứa:
– 45-60% carbohydrates, chủ yếu là sợi nhầy (galactomannans);
– 20-30% protein cao trong lysine và tryptophan;
– 5-10% các loại dầu cố định (lipid); pryridine loại ancaloit chủ yếu trigonelline (0,2-0,36%), choline (0,5%), gentianine, và carpaine;
– flavonoid (apigenin, luteolin, orientin, quercetin, vitexin, và isovitexin);
– các axit gốc amino tự do (4-hydroxyisoleucine [0,09%], histidine, arginine, và lysine);
– canxi và sắt ;
– saponin (0,6-1,7%);
– glycosides tạo thành sapogenins steroid khi thủy phân (diosgenin, yamogenin, tigogenin, neotigogenin);
– sitosterol, vitamin A, B1, C và acid nicotinic;
– 0,015% tinh dầu dễ bay hơi (n-ankan và sesquiterpene).
[Nguồn:
+ Blumenthal et al. 2000; Shang M, Cai S, Han J, Li J, Zhao Y, Zheng J, Namba T, Kadota S, Tezuka Y, Fan W. 1998.
+ Các nghiên cứu về flavonoid ở methi (Trigonella foenum-graecum L.) Zhongguo Zhong Yao Za Zhi. 1998 Oct; 23(10): 614-6, 639].
Công dụng của hạt methi:
Hạt methi và tiểu đường
Hạt methi là một trong số ít dược thảo được WHO và nhiều quốc gia công nhận là có hoạt tính giúp hạ đường trong máụ. Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã giúp chứng minh khả năng hạ đường của hạt methi, khi thử trên thú vật và cả khi thử nghiệm lâm sàng nơi người (theo Phytotherapy Research số 12-1998).
Hạt methi có thể sử dụng đơn độc hay dùng phối hợp với vanadate, tạo ra một sự bình thường hóa các men glucose-6-phosphatase và fructose-1,6-biphosphatase trong gan và thận của người bị tiểu đường. Hoạt tính hạ đường tăng cao hơn khi dùng dưới dạng phối hợp. Hạt methi cũng có hoạt tính giúp bình thường hóa hoạt động của men glyoxalase I nơi gan của chuột bị tiểu đường (Indian Journal of Expe rimental Biology số 37-1999).
Khi cho chuột bình thường và chuột bị gây tiểu đường bằng alloxan dùng methi ở những liều 2 và 8g/kg hiệu ứng hạ glucose trong máu xảy ra rất rõ rệt, hiệu ứng này tùy thuộc vào liều sử dụng (Journal of Ethnopharmacology Số 75-2001).
Một thử nghiệm khác trên 21 bệnh nhân NIDM (Người bị tiểu đường không phụ thuộc vào insulin) ghi nhận liều 15gram hạt cho dùng một lần trong bữa ăn gây hạ glucose trong máu, và không gây những thay đổi về nồng độ insulin (Nutrition Research Số 16-1996).
Ngoài ra, cũng trong một thử nghiệm trên 15 bệnh nhân NIDM, cho dùng hạt methi đã loại chất béo trong 10 ngày, gây hạ glucose trong máu (nhịn ăn đêm trước) và giảm lượng glucose đào thải qua nước tiểu đến 64%. Thử nghiệm này cho rằng cơ chế tạo ra hạ đường trong máu của methi có thể do hiệu ứng của chất sơ dinh dưỡng (Soluble dietary fiber) trên sự hấp thu glucose nơi ruột và do sự cải thiện hoạt tính ngoại vi của insulin (Nutrition Research Số 10-1990; British Journal of Nutri tion Số 97-2007).
Hạt methi cũng làm giảm được một số triệu chứng của tiểu đường như khát nước, đi tiểu nhiều lần, yếu mệt và sụt cân.
Tại các bệnh viện ở Trung Hoa, Saponins tổng cộng trích từ hạt methi đã được dùng phối hợp với sulfonylurea để trị tiểu đường cho thấy sự phối hợp đem lại những kết quả rất tốt, giúp bệnh nhân giảm được sulfonylurea và kiểm soát được mức đường hữu hiệu hơn (Chinese Journal of Integrative Medicine Số 14-2008).
Hạt methi và cholesterol
Một số nghiên cứu thực nghiệm nơi chuột đã chứng minh được hoạt tính làm hạ cholesterol của methi (Current Science Số 51-1982). Hạt methi giúp ngừa gia tăng cholesterol nơi chuột cho ăn các thực phẩm hay một chế độ ăn uống chứa nhiều cholesterol (British Journal of Nutrition Số 69-1993).Một acid amin đặc biệt trích từ methi: 4-hydroxyisoleucine có khả năng gây hạ triglycerides trong máu đến 33%, cholesterol tổng cộng đến 22% và acid béo tự do 14%, cùng với sự tăng tỷ lệ HDL-C/TC đến 39% khi thử trên chuột bị gây cao mỡ trong máu (Bio organic & Medicinal Chemistry Letters Số 15-2006)
Saponin loại steroid, trích từ hạt methi, thử nơi chuột, với liều mỗi ngày 12.5g/ 300g trọng lượng cơ thể làm hạ rõ rệt cholesterol trong huyết tương ở cả chuột bình thường lẫn chuột bị tiểu đường (Steroids Số 60-1995).
Hoạt tính chống sưng của methi
Hạt methi đã được nghiên cứu vế tác dụng chống sưng, thử nghiệm trên chuột lang (albino) bị gây viêm bằng các chất gây sưng khác nhau. Hoạt tính chống sưng được so sánh với sodium salicylate. Dịch chiết từ hạt bằng ether có hoạt tính mạnh nhất (Indian Drugs Số February 1982). Một thử nghiệm khác cũng trên chuột, bị gây đau bằng acid acetic, bằng nhiệt (bị đặt trên đĩa nung nóng), dịch chiết từ hạt methi được so sánh với pentazocine và diclofenac, kết quả ghi nhận phần tan trong nước của dịch chiết có hoạt tính chống sưng và làm giảm đau khá mạnh (Asian Pacific Journal of Clinical Nutrition Số 16-2007).
Khả năng kháng sinh
Methi đã được thử nghiệm về hoạt tính kháng sinh trên 26 loại vi trùng gây bệnh và cho thấy khả năng kháng sinh khá rộng, dầu béo và Phần không bị savon-hóa, trích từ hạt đều có hoạt tính kháng sinh khá mạnh (Natural Products Science Số 7-2001)
Hoạt tính diệt ký sinh trùng Sốt rét
Dịch chiết bằng các dung môi khác nhau từ lá methi đã được thử nghiệm ‘in vitro’ trên các chủng ký sinh trùng gây sốt rét Plasmodium falciparum (gồm các chủng còn mẫn cảm và các chủng đã kháng chloro quin). Kết quả cho thấy, dịch chiết bằng ethanol 50% có hoạt tính diệt ký sinh trùng mạnh nhất ở liều IC50 = 8.75 +/- 0.35 microg ml(-1) đối với plasmodium còn phản ứng với chloroquin và ở liều IC50 = 10.25 +/- 0.35 microg ml (-1) đối với plasmodium đã kháng chloroquin. Các dịch chiết bằng butanol, chloroform và ethyl acetate tuy cũng có tác dụng nhưng yếu hơn nhiều (Evidence Based Complementary and Alternative Medi cines Số 2 tháng 5, 2008). Hạt methi có khả năng diệt được ấu trùng (lăng quăng) của muỗi đòn sóc Anopheles pharoensis: Nồng độ cao hơn 0.5% có thể diệt toàn bộ số lượng lăng quăng (Egyptian Society of Parasitology Số 36-2006).
Khả năng chống oxy-hóa
Nhiều nghiên cứu trong công nghiệp thực phẩm đã cho thấy hạt methi có thể hữu hiệu khi dùng làm chất chống oxy-hóa để bảo quản thực phẩm. Trong một thử nghiệm, tiềm năng chống oxy-hóa của methi có thể so sánh được với các chất kháng oxy tổng hợp như butylated hydroxyanisole và butylated hydroxytoluene (Meat Science Số 57-2001); khả năng kháng-oxy của hạt methi hoạt động rất tốt khi dùng bảo quản thịt heo xay (cà thịt tươi lẫn thịt đông lạnh).
Khả năng bảo vệ gan chống tác hại của rượu
Các polyphenols trích từ hạt methi được nghiên cứu về khả năng bảo vệ gan (nơi chuột) chống lại tác hại của rượu: Ruột bị gây hư gan bằng cho uống thenol 6g/kg mỗi ngày liên tục trong 60 ngày: các triệu chứng hư gan bao gồm các thông số về hoạt động của các men gan, giảm hạ các nhóm sulfohydryl, gia tăng các nhóm carbonyl proteins. Kết quả ghi nhận là methi có hoạt tính tương tự như silymarin (dùng làm đối chứng), giúp cải thiện được các thay đổi bệnh lý ở gan gây ra do rượu (Cell Biology and Toxicology Số 24-2008).
Khả năng ngừa và trị sạn thận
Hạt methi được sử dụng tại Maroc để ngừa và trị sạn thận. Nghiên cứu tại ĐH Cadi-Ayyad Marrakech (Maroc) ghi nhận hiện tượng calci hóa trong thận và lượng calcium tổng cộng nơi các tế bào thận của chuột được cho uống dịch chiết từ hạt methi thấp hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng. Methi cho thấy tương đối hiệu nghiệm trong tác dụng ngăn ngừa sự tạo sạn calcium oxalate (Phytotherapy Research Số 21-2007).
Hạt methi và Ung thư
Trong một thử nghiệm thực hiện tại Đại học UAE (United Arab Emirates) hạt methi cho thấy có hoạt tính bảo vệ được chuột chống lại ung thư vú, gây ra bởi 7,12 dimethylbenz (alpha) anthracene (DMBA). Liều 200 mg/ kg trọng lượng cơ thể ức chế rõ rệt hiện tượng phì vú do DMBA tạo ra, hoạt tính này được giải thích là do gây ra hiệu ứng tế bào được mã hóa để tự diệt (apoptosis) (Cell Biology International Số 29-2005). Dịch chiết từ hạt methi bằng alcohol, khi thử nghiệm trên chuột bị gây ung thư loại Ehrlich Ascites Carcinoma (EAC) cho thấy khi chích qua màng phúc toan (trước và sau khi chuột bị cấy tế bào ung thư), methi có thể ức chế sự tăng trưỡng của tế bào ung thư đến 70% (Phytotherapy Research Số 15-2001).
Đặc tính dinh dưỡng của hạt methi:
Trong 100gram của hạt methi chứa :
– Calories 323 g- Chất đạm 23.00 g- Chất sơ 10.07 g- Chất béo 6.41 g- Calcium 176 mg- Sắt 33.53 mg- Magnesium 191 mg- Phosphorus 296 mg- Potassium 770 mg- Sodium 67 mg- Kẽm 2.5 mg- Đồng 1.11 mg- Manganese 1.228 mg- Thiamine 0.322 mg- Riboflavine 0.366 mg- Niacin 1.640 mg- Folic acid 57 mg- Vitamin C 3.00 mg
Hạt methi dùng trong nhiều món ăn
Tại Ấn Độ, hạt methi ngoài vai trò trong càri, còn là một trong 3 chất của idli hay dosa (Tamil); là một trong thành phần nguyên liệu để làm loại bánh mì khakhra. Tại Ethiopia và Erythrea, hạt dùng trong bánh mì injera/taita, loại bánh truyền thống của vùng Sừng Phi châu. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, hạt (gọi là ceman) dùng trong bột cay để làm món pastirma.
Tại Ai cập, hạt được đun sôi, thêm đường, để thành món nước uống rất được ưa thích trong những tháng mùa Đông. Tại những nơi khác trong vùng Trung Đông, methi có mặt trong nhiều món kẹo, bánh, chè ngọt. Món bánh ngọt tráng miệng Helba (bánh phủ đường hay si rô maple, rắc thêm hạt methi trên mặt) rất được ưa thích trong các dịp lễ lạc Hồi giáo. Người Do Thái có phong tục ăn methi trong bữa ăn của đêm thứ nhất hay thứ nhì của lễ Rosh Hashana (Năm Mới).
—————————————————————
Cách dùng để phòng ngừa bệnh
Cách dùng rất đơn giản, mỗi ngày khoảng 15 – 20 g hạt, rang hạt cho thơm, tán thành bột, pha nước uống, hoặc lấy hạt sống chưa rang, ngâm trong ly có chứa 200 ml nước lạnh, để qua một đêm cho hạt nở ra, sáng dậy uống hết nước trong ly, bỏ xác. Hạt có mùi thơm như vị rau cần tây, dễ uống. Hạt methi được xếp vào nhóm gia vị nên không có độc tính, tuy nhiên nếu dùng quá liều sẽ có cảm giác khó chịu ở bụng, dạ dày, phụ nữ có thai gần đến ngày sinh không nên dùng vì có thể gây sẩy thai.
Cách dùng cho người bệnh tiểu đường
Cách 1 : cho 01 muỗng hạt Methi vào ly nước nóng 50 – 70 độ khoảng 10 phút, sau đó ăn hạt và uống nước 2 – 3 lần/ ngày trước bữa ăn 1h.
Cách 2 : cho 02 – 03 muỗng hạt Methi vào ấm trà rót nước nóng chờ khoảng 5 phút, uống 2- 3 lần tới khi nước nhạt màu ( giống như pha và uống trà ).
Cách 3 : Cho hạt Methi vào ấm đun sôi 3 – 5 phút, lọc bỏ bả. Uống nóng, để nguội hoặc bỏ vào tủ lạnh để uống trong ngày
Cách 4 : Nếu muốn thơm ngon hơn thì có thể xao vàng rồi hãm nước và uống nóng hoặc đóng chai để tủ lạnh uống như nước lọc trong ngày. Với cách này cần tăng liều dùng lên khoảng 1,2 – 1,5 lần
Cách 5 : Hấp cơm, làm bánh, nước sốt, làm sinh tố, sữa chua,…
Cách dùng do người dùng chia sẻ
Ngâm 2 muỗng canh hạt Methi (muỗng ăn cơm) với 1 lít nước sôi. Tốt nhất là pha trong bình thủy hoặc bình giữ nhiệt để các chất trong Hạt Methi ra nhiều hơn. Nên tiến hành ngâm lúc sáng sớm, sau đó khoảng 2 tiếng là có thể dùng.
Uống trước và sau mỗi bữa ăn khoảng 15 – 30 phút. Có thể uống thay nước lọc trong ngày. Uống xong có thể ăn hạt (tùy người dùng có thể ăn hoặc bỏ hạt)