Phần 5: Văn nhân và ả đàoVăn nhân, trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Những thư tịch ấy đã có một đời sống riêng trong dòng chảy của văn hóa Việt, trở thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác mang tâm hồn và căn cước Việt Nam. 500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Một văn nhân hay chữ trong làng là Lê Đức Mao (1462- 1529) thay mặt 8 giáp viết 9 bài thơ để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ “ca trù”. Đây cũng là bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ ‘ca trù’ lần đầu tiên có mặt trong văn học viết, là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV. Trải qua nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ. Ngày hội làng, các ả đào đứng trước điện thờ, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc phú… Giáo phường nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các vị thành hoàng để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và hát chệch đi. Nếu cô đầu không nhớ, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Khi ấy quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu, đến trước điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên.Người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về văn chương và âm luật. Thưởng công minh làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng” thì làng tốn tiền, thưởng “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, không biết nghe hát nghe đàn. Có khi người cầm chầu mà không biết thưởng thức, gặp cô đào đanh đá hát một câu khiến người cầm chầu phải xấu hổ bỏ roi chầu mà về. Làng tôi năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào giễu rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “ở đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”.Ngày xưa, có cô đào họ Nguyễn đã có công giúp tiền của để chàng thư sinh nghèo Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ. Vũ Khâm Lân, quê xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) là một anh học trò nghèo thông minh chăm chỉ, vì dì ghẻ độc ác hà hiếp nên phải bỏ nhà lang thang xin ăn độ nhật. Khi đến làng Dịch Vọng (Từ Liêm) xin ăn ở trường ông Hương cống thì được thương và chu cấp cho ăn học. Trong khoảng hai năm việc học đã ngày chàng tiến tới, trong trường không còn ai là đối thủ nữa. Mùa xuân năm ấy, làng Dịch Vọng vào đám rước thần. Mấy người bạn học rủ ông đi xem hội. Trai gái cả làng đều ăn mặc đẹp, chen chúc nhau xem hát. Riêng ông thì mặc áo bông cũ bẩn, dựa cột lén xem như chỉ sợ người khác thấy mình. Giáo phường đến hát có một cô đào hát tuổi chừng mười bảy, mười tám nhan sắc xinh đẹp, đoan trang; mỗi lần nàng cất tiếng hát thì tiền và lụa thưởng cho nàng ném đầy xuống mảnh chiếu hoa nàng ngồi hát. Lúc cô đang múa, ánh đuốc lớn ngoài sân chiếu qua góc đình, khiến cô nhìn thấy ông, chăm chú một hồi lâu, bần thần nhưu đánh mất một vật gì, không sao hát được nữa. Người làng đang xem cho là cô bị trúng phong đột ngột, ai nấy đều không vui. Người cầm chầu phải xin dừng đêm hát. Vũ Khâm Lân cũng theo mọi người ra về. Hôm sau vào lúc xế trưa, thấy có người con gái đến thẳng chỗ ông, an ủi và tặng ông 10 quan tiền cùng các thứ đồ ăn mặc, rồi trân trọng từ biệt. Từ đó, cứ dăm ba tháng một lần cô lại đến chỗ ông ở, may vá, nấu nướng cho ông. Lúc mới gặp cô gái, ông rất xúc động và kính trọng cô. Lâu ngày thành quen, biết cô gái yêu mình, ông bỗng dưng nảy sinh lòng tà vạy, lẻn tới chỗ cô con gái xin ngủ cựng. Cô gái nghiêm khắc cự tuyệt. Ông lấy làm hổ thẹn xin lỗi nàng, và từ đó càng thêm niềm kính yêu, trân trọng. Hai năm sau, gặp kỳ thị Hội, ông sửa soạn về quê để đăng ký thi theo hộ tịch ở quê nhà. Cô gái đến tiễn, đưa tặng rất hậu. Lúc sắp chia tay, ông cầm tay cô gái xin được biết quê quán, họ tên để sau này biết chốn tìm nhau. Cô gái không cho ông biết gì về thân thế, gia cảnh. Mùa thu, ông về thi ở huyện ở phủ đều đỗ đầu. Thi Hương, thi tỉnh cũng nhất. Cha ông bàn việc chuyện hôn nhân, định hỏi con nhà thế gia cho ông. Ông cố chối từ và thành thực kể lại chuyện riêng, xin được lấy người con gái ấy. Cha ông nổi giận quyết không cho lấy cô đào kia và mắng ông rất nhiều. Ông buộc phải nghe lời cha dạy. Kỳ thi Hội năm sau, cô gái đem lễ tặng rất hậu và tới đợi Vũ Khâm Lân ở chỗ trọ tại kinh đô. Lân ngượng ngập, không biết nói gì. Cô gái nói với Lân: “Thiếp biết cả rồi, chẳng cần chàng nói. Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp hèn hạ không xứng hầu hạ khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp”. Từ đó ông không gặp lại cô đào trẻ đó nữa. Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bảo Thái thứ 8 (1727).Sau ông thi đỗ, vào làm việc trong viện Hàn lâm, đi sứ phương Bắc, làm quan trong kinh ngoài trấn trải hơn mười mấy năm. Ông còn được triều đình cử đi dẹp giặc giã. Dẹp xong giặc, ông được phong là Quận công, làm việc ở Ngự sử đài, rồi thăng Tể tướng, vẻ vang hiển hách không ai bằng. Mỗi khi kể chuyện đã qua, ông lại than thở buồn rầu tự trách mình. Ông đã sai người đi tìm chỗ ở của cô gái nhưng vẫn không tìm được.
Trong một tiệc hát ở nhà người bạn đồng liêu họ Đặng, thấy có người con gái đang gieo phách giữa chiếu hoa trông giống với người con gái ngày xưa. Hỏi ra thì đúng là nàng. Dẫu cho phong trần dầu dãi mà nét kiêu sa đằm thắm cùng tiếng phách tuyệt kỹ vẫn còn như xưa. Ông hỏi thăm về những ngày tháng đã qua của cô, thì biết mười năm trước cô lấy một viên quan võ ở trấn Thái Nguyên. Khi võ quan này chết, hai người chưa có con cái gì, nàng không biết đi đâu, chỉ còn một ít tư trang, mới lần về quê cũ. Gặp đứa em chẳng ra gì, phá tán sạch cơ nghiệp, cô đành dắt mẹ già lưu lạc trong thành Tràng An, dựa vào các nhà quyền thế, đàn hát qua ngày kiếm miếng ăn. Nghe câu chuyện của nàng, ông không sao nén nổi xót thương, bèn đón cả hai mẹ con nàng về một nơi ở riêng, chu cấp đầy đủ. Hơn một năm sau, mẹ cô mất. Ông lo chôn cất chu đáo. Tang ma cho mẹ xong, cô gái lại từ biệt ra đi, có lẽ lại dấn thân vào chốn ca trường đầy bất trắc. Ông giữ lại không được, hậu tặng cô rất nhiều tiền bạc, cô cũng không nhận. Ông cố ép thì cô nói: “Thiếp không có phúc được làm vợ tướng công, thì những thứ tiền bạc này đâu có phúc để tiêu mà nhận. Rồi nàng lén bỏ ra đi. Ông cho người nhà đuổi theo mà không kịp, không rõ đi đâu. Về sau, biết nàng là người huyện Chương Đức xứ Sơn Nam (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Nội). Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ tại Đông Dương. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những trục đường giao thông lớn nhỏ. Một số giáo phường ca trù ở nông thôn đã di chuyển ra tỉnh và bám theo dọc các trục đường giao thông để mở nhà hát (ca quán). Trước kia người hát đến nhà người nghe hát. Kể từ khi có ca quán, người nghe hát đến ca quán để nghe hát. Từ đó nảy nở mối tình giữa văn nhân và đào nương. Đó là một mối quan hệ khá thắm thiết, gần gũi giữa Nguyễn Khuyến và cô đào Sen người làng Thi Liệu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định; giữa Dương Khuê với cô Hồng, cô Tuyết, cô đầu Hai, cô đầu Phẩm, cô đầu Cúc, cô đầu Oanh, cô đầu Cần. Là Dương Tự Nhu với cô đầu Khanh, cô đầu Văn, cô đầu Phú, cô đầu Kim…Và nhà nho tài tử Nguyễn Danh Kế đã gặp gỡ đào nương tài sắc Nhữ Thị Nghiêm trong một ca quán ở phố Hàng Thao, thành Nam Định. Yêu vì tài, cảm vì tình rồi họ kết duyên chồng vợ. Cuộc hôn nhân này đã sinh ra Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu – một thi sĩ tài hoa đa tình. Ngay em gái của Tản Đà là cô Trang cũng là một đào nương: Có phải cô Trang em ấm Hiếu/ Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà (Tặng cô đầu Trang – Trần Tán Bình). Khắp các nơi phố thị ca quán ca trù mọc lên như nấm sau mưa. ở miền Trung thì Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, tỉnh nào cũng có nhà hát cô đầu. ở miền Bắc những thành phố lớn đều có nhà hát, ở Nam Định trước cô đầu mở nhà hát ở phố Hàng Thao, sau thiên xuống Ngã Sáu. Theo phóng sự điều tra của ký giả Hồng Lam trên báo Trung Bắc chủ nhật số 129, năm 1942 thì riêng năm 1938, ngoại ô Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cô đầu tập trung trước thì ở Hàng Giấy, ấp Thái Hà, sau đến Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Vạn Thái, Chùa Mới, Cầu Giấy, Kim Mã, Văn Điển, Gia Quất.Trong các khu phố có các ca quán ả đào, Khâm Thiên và Ngã Tư Sở là những địa chỉ nổi tiếng vì sự gắn bó với các nhà văn nhà thơ nổi tiếng: Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoài Điệp Thứ Lang, Vũ Hoàng Chương.Khâm Thiên là nơi nhộn nhịp nhất của làng cầm ca thưở ấy. Nơi đây có nhà hát 24 gian, có những người quản lý giỏi giang, khiến cho cả khu phố quanh năm đỏ đèn. Nhà văn Vũ Bằng gọi xóm Khâm Thiên là “cái nôi văn nghệ của Hà Nội”. Ông cho biết: “tôi chưa thấy có nhà văn nhà báo đất Bắc nào mà lại không ra vào nhà hát cô đầu”, và các xóm cô đầu “quả là cái lò đúc ra văn nghệ sĩ”. Và ông kể về việc làm báo ở những tòa báo “lúc đó ở những con đường Nhà thương Phủ Doãn nhưng thật tình chỉ có một anh quản lý và một người tùy phái ở đây thường trực mà thôi. Còn bao nhiêu nhân viên tòa soạn thiết lập đại bản doanh ở Khâm Thiên, Vạn Thái … Đại bản doanh lưu động, nay ở nhà này mai ở nhà khác. Chúng tôi viết bài, sửa bài ở nhà hát rồi gói tròn cả lại để vào một chỗ nhất định. Sáng ra người tùy phái đạp xe cọc cà, cọc cạch xuống lấy bài, đem về cho nhà in xếp chữ. Mỗi tuần lễ một lần, tôi lại hạ san từ xóm về nhà in để “mi” và vét tiền két chi nhà hát”. Phải nói rằng văn hóa ả đào, văn hóa ca trù đã thấm đẫm trong sáng tạo của thi sĩ, văn sĩ trước 1945. Cũng tại Khâm Thiên, Nguyễn Tuân đã sống và tích lũy vốn liếng cho các tác phẩm về ca trù như Đới roi, Chùa Đàn. Trần Huyền Trân đã sống ở ngõ Cống Trắng, Khâm Thiên. Chàng thi sĩ tài hoa của xứ sở “Rau tần” này đã tặng danh ca Quách Thị Hồ những dòng thơ chứa chan niềm ưu tư: Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca/ Mênh mông trời đất vẫn không nhà/ Người ơi mưa đấy ? Hay sênh phách/ Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa. … Thôi khóc chi ai kiếp đọa đầy/ Tỳ bà tâm sự rót nhau say/ Thơ ta gửi tặng người ngâm nhé/ Cho vút giọng sầu tan bóng mây. Năm ấy Quách Thị Hồ tròn 30 tuổi. Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng có nhiều bài thơ gửi gắm tâm hồn đồng điệu với các đào nương đem tài sắc tuổi thanh xuân dâng tặng tri âm. Với Thế Lữ là “Bên sông đưa khách”, với Vũ Hoàng Chương là “Nghe hát” nắn nót câu chữ như ai nắn phím tơ: Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm/ Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm/ “Canh khuya đưa khách…”. Lời gieo ngọc/ Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm. Với Xuân Diệu là “Lời kỹ nữ”, mà theo Hoài Thanh thì “Người kỹ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người Tỳ bà phụ. Nhưng nàng không lặng lẽ buồn mà ta thấy nàng run lên vì đau khổ: Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;/ Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da”…Lại có câu chuyện rằng có một đào nương tài sắc vẹn toàn, từng làm mê mẩn bao quan viên và tao nhân mặc khách. Một đêm mưa gió, nàng đi hát ở làng bên trở về thì bị cảm lạnh và qua đời ngay bên cầu Trò (Sơn Tây). Dân làng và các quan viên thương cảm nàng đã chôn cất và lập miếu thờ nàng ngay bên cầu. Câu chuyện ấy khiến bao người xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh, ‘nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương’ của người ca nữ nọ. Nhà thơ Vũ Đình Liên nghe chuyện, cảm động mà viết bài Cảm tạ với hai câu kết: Tạ lòng nào biết nên chi được/ Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng. Sau khi nghe chuyện và đọc bài thơ của Vũ Đình Liên, chung với mối đồng cảm ấy, họa sĩ Bùi Xuân Phái đã ký họa lại hình ảnh của người ca nữ qua tưởng tượng. Những nét vẽ gầy guộc mảnh mai của ông như thấu được cả cái thân phận tài hoa nhưng mệnh bạc. Thưởng thức ca trù gọi là “nghe hát”, chứ không phải là “xem hát”. Đào nương ca trù chỉ ngồi yên gần như bất động trong suốt cuộc hát trên một mảnh chiếu cạp điều, với vẻ mặt bình thản, đoan trang. Đào nương chỉ có một cỗ phách tre đặt trước mặt và “đối thoại” với khách nghe chỉ bằng giọng hát và tiếng phách của mình. ấy vậy mà nghệ thuật này đã góp cho văn chương hàng nghìn bài thơ viết bằng chữ Nôm chứa đựng rất nhiều tâm trạng, rất nhiều biến thái vi tế của tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ với các tên tuổi tiêu biểu như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Tự Nhu, Nguyễn Hàm Ninh, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Bùi Kỷ, Tản Đà …Trong kho tàng văn chương ca trù, các bài hay nhất vẫn là những bài ghi lại kỷ niệm giữa văn nhân và ả đào. Mỗi bài hát là một câu chuyện riêng tư thi vị, mà rất nhiều trong số này lại là những sáng tác ngẫu hứng, ngay trong chiếu hát, ngay trong tiệc rượu. Xưa nay, đến với ca trù là những tâm hồn yêu tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa. Và văn nhân và ca nữ vẫn là một mối quan hệ mà dường như chỉ có tạo hóa mới ban tặng được. Có phải vì thế mà mối tình giữa văn nhân và ca nữ luôn ở trong trí nhớ người đời? Có phải vì thế mà những mối tình này được lưu giữ trong văn chương rất thi vị cho dù nó hiện diện và tồn tại một cách rất mong manh?
Phần 6: Hát Ca trù trong đón tiếp ngoại giao
Một văn bia quan trọng vừa được phát hiện tại kho bản rập của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đó chính là văn bia Bản huyện giáo phường lập đoan bi ký được soạn vào niên hiệu Long Đức 3, dưới thời Lê, tức là năm 1734, ghi nhận một sự kiện đặc biệt: dùng ca trù trong đón tiếp ngoại giao. Đây là một thông tin hiếm hoi và duy nhất về chuyện giới thiệu âm nhạc ca trù của nước ta với bên ngoài. Từ đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật ca trù vào thế kỷ XVIII đã là một trong những đại diện của âm nhạc nước ta được giới thiệu trong hoạt động đối ngoại ở cấp quốc gia.Theo sự ghi nhận của thư tịch cổ, ca trù được tổ chức như sau: Hát thờ: hát thờ tổ (còn gọi là tế tiên sư, có 9 làn điệu chuyên dùng); hát thờ thành hoàng trong các đình làng, hát thờ thần trong các đền miếu. Hát chơi: Hát khao trong các tư gia (mừng nhậm chức, sinh con trai, khánh thành nhà, đám cưới), hát chơi trong dinh thự. Hát thi: Hát thi tại các làng quê (thi giữa các giáo phường để chọn người hát giỏi). Hát chơi trong các dịp đặc biệt: Hát chúc hỗ mừng thọ vua, hát trong nghi lễ đón tiếp sứ giả nước ngoài. Trong bài này chỉ xin nêu 3 trường hợp là hát ca trù trong đón tiếp ngoại giao, trong Thánh lễ của công giáo và trong hát thi.Hát ca trù trong đón tiếp ngoại giaoGiáo phường ca trù không những biểu diễn phục vụ trong các lễ hội dân gian ở các làng xã mà còn vượt ra khỏi địa phương để tham gia vào các nghi thức tiếp khách của nhà nước. Đây là một vấn đề chưa đề cập tới trong bất kỳ tài liệu nghiên cứu nào trước đây.
Văn bia Bản huyện Giáo phường lập đoan bi ký, soạn năm 1734, chứng tích về việc dùng ca trù trong đón tiếp ngoại giao. – Ảnh: tư liệuTài liệu mà chúng tôi phát hiện được là văn bia Bản huyện giáo phường lập đoan bi ký , bản rập mang số ký hiệu 15639 – 15640, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tấm bia này hiện để tại đình xã Đức Lạp, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Bia được tạo vào niên hiệu Long Đức 3, dưới thời Lê, tức là năm 1734. Tấm bia gồm 2 mặt, khổ 60 x 43 cm, có 40 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 31 chữ. Trán bia có chạm mặt trời và mây. Diềm bia không hoa văn. Nội dung: Ông trùm giáo phường xã An Thanh, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đái là Khổng Đắc Toàn và vợ là Nguyễn Thị Đề cùng các con và gia tộc đã được bản huyện đã chia cho giữ cửa đình Đức Lạp, tổng Yên Xá. Nay vâng lệnh quan phủ cử gấp về kinh để nghinh đón sứ giả, nhưng vì thiếu tiền để chi phí nên bán lại quyền lợi được hưởng ở cửa đình này cho quan viên xã Đức Lạp cùng huyện lấy 85 quan tiền sử để chi dùng. Có kê ra các lễ tiết và quyền lợi được hưởng cùng bản giao ước giữa hai bên.Đây là một thông tin hiếm hoi về chuyện giới thiệu âm nhạc của nước ta với bên ngoài. Ngoài văn bia này, chúng tôi chưa gặp một tài liệu nào khác cho các thông tin tương tự. Thông tin này cho thấy các giáo phường trong dân gian đã được góp phần tham gia vào các hoạt động lễ tiết của nhà nước. Từ đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật ca trù vào thế kỷ XVIII đã là một trong những đại diện của âm nhạc nước ta được giới thiệu trong hoạt động đối ngoại ở cấp quốc gia. Hát ca trù trong Thánh lễ Thiên chúa giáoTrong quá trình điền dã nghiên cứu, Gs. Nguyễn Hồng Dương (Viện Nghiên cứu Tôn giáo) ghi chép được một số bài thơ thể hát nói (ca trù) trong thánh lễ nhà thờ công giáo ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tiếc rằng chung ta không biết là các bài thơ này được hát lên như thế nào, và khi tấu các bài thơ này lên thì có dùng nhạc đàn đáy và cỗ phách ca trù hay không. Được biết, đây chính là vùng đất mà Nguyễn Công Trứ được cử đến làm Dinh điền sứ, trông coi việc khẩn hoang ở đây và lập nên các làng mạc. Có thể, vì Hy Văn Nguyễn Công Trứ là một tài tử, ham mê đàn hát ả đào mà ảnh hưởng đến cả một vùng này khỉến cho việc phụng thờ, kính chúa cũng ít nhiều tiếp thu nghệ thuật ca trù vào sinh hoạt của người công giáo. Đây là một hiện tượng hy hữu trong nghiên cứu về ca trù cũng như ảnh hưởng của sinh hoạt ca trù trong xã hội.Một cuộc hát thi Theo thư tịch cổ, kết hợp với sự khảo cứu của các học giả đi trước, và tham khảo các nghệ nhân ca trù, chúng tôi thấy có các trường hợp thi trong hát ca trù như sau: Thứ nhất: Thi giữa các giáo phường với nhau để chọn đào kép hay nhất vào hát thờ ở cửa đình, phục vụ lễ hội địa phương (cuộc thi do Hội đồng chức sắc địa phương tổ chức); Thứ hai: Cuộc thi do Ty giáo phường tổ chức để chọn lấy đào kép hay để phục vụ hát chúc hỗ trong các khánh tiết của nhà nước; Thứ ba là cuộc sát hạch do giáo phường tổ chức để công nhận người đào nương đã đạt đến trình độ được phép hành nghề (gọi là lễ mở xiêm áo). Về cuộc thi thứ nhất, chỉ thực hiện ở những làng giàu có về kinh tế, hoặc chỉ tổ chức vào những năm đặc biệt như làng được triều đình ban thưởng hoặc làng có người đỗ đạt cao. Thể lệ thi hát được thể hiện dưới các bản thông báo treo tại đình khi làng tổ chức thi hát. Dưới đây xin giới thiệu về thể lệ thi hát, được chép trong sách Quang Liệt xã Văn Hội điều lệ (A.995/1-2). Thể lệ này được thể hiện dưới các bản yết thị, thông báo treo tại đình Quang Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, khi làng tổ chức thi hát. Bảng thông báo có nội dung như sau: Ngày, tháng, năm, niên hiệu, các quan viên sắc mục… của bản xã, kê ra thể thức ở dưới đây: Báo cho giáo phường bản huyện cùng các giáo phường ở các phủ, xứ được biết: ngày…tháng…năm nay, bản xã theo lệ, có mở tiệc cầu phúc, xướng ca thờ thần. Bản xã theo lệ có mở cuộc thi nghề ca hát. Khi thông báo, các giáo phường sẽ đợi ở đình ngoài. Mỗi ngày, nếu là trong huyện thì đào nương và quản giáp một đôi, nếu là các phủ, xứ khác thì hai đôi. Tất cả đều vào thi. Tôn trọng theo phép tắc, không được tranh giành. Đợi đến ngày ra bảng, ai trúng thì có tên yết trên bảng, ngay hôm đó vào hát nhận giữ thẻ. Nếu ai không trúng, không có trong bảng, sẽ nhận tiền phấn sáp, mỗi đôi 3 mạch 30 văn cổ tiền và không được vào hát nữa để phép thi được nghiêm.
Đoàn vũ công ca trù. Ảnh do Hocquard chụp năm 1884Ngày vào thi, thông báo về thể thức như sau: Năm…tháng…ngày… các quan viên, sắc mục bản xã, bản tổng, kê ra đây các thể thức như sau:Báo cho giáo phường bản huyện cùng các giáo phường trong các phủ, xứ được biết. Hễ bản xã vào tiệc cầu phúc, hát xướng thờ thần, có lệ thi hát. Khi biết thông báo này, đào nương quản giáp xếp lượt rất đông, nên phải theo thứ tự vào thi. Khi biết ngày thi, cứ mỗi ngày 5 đôi cho vào thi. Nam thi thơ, nữ thi phú, mỗi người vài câu. Ngay ngày hôm đó treo bảng ghi tên người đỗ. Người nào trúng sẽ vào thi tiếp. Người nào không trúng, phát cho tiền trầu cau, mỗi đôi cổ tiền 1 mạch 20 văn, và không được vào thi nữa. Việc thi hát và thi kỹ thuật trình diễn gồm 3 vòng thi trong đó vòng 1 gồm 22 điệu; vòng 2 gồm 11 điệu; vòng 3 gồm 21 điệu. Ca trù cách thức mục lục (VNv.160, thư viện Hán Nôm) giới thiệu các điệu hát trong 3 vòng thi với thứ tự như sau: Vòng 1 gồm: Giáo cổ (giáo trống), Thư cách, Hát nam, Thư phòng, Hát giai, Tiến chức, Thăng quan, Nhạc hương, Thét nhạc, Hà nam, Độc phú, Ngâm vọng, Bắc phản, Hát mưỡu, Hát nói, Cung bắc, Dồn đại thạch, Hãm, Dựng, Huỳnh, Bỏ bộ, Dồn dựng. Vòng 2 gồm: Rung trống, Chạy đuổi, Hát giai, Hát tầng, Ngâm hát gái, Hát nam, Hát truyện, Hát mưỡu, Hát nói, Dựng, Huỳnh.Vòng 3 gồm: Giáo cổ, Thư cách, hát giai, Thư phòng, Tiến chức, Thăng quan, Nhạc hương, Thét nhạc, Ngâm vọng, Bắc phản, Hát mưỡu, Hát nói, Dồn cung nam, Gửi thư, Đại thạch, Hãm, Dựng, Huỳnh, Nói dồn, Gióng chinh phu, Biếm gái. Những người thi đỗ sẽ được hát chính thức trước điện thờ, còn những người không trúng đều được làng phát tiền phấn sáp hoặc tiền trầu cau để vui vẻ ra về. Xem thế đủ biết lệ thi hát ở những làng xã ngày xưa là một dịp so tài sắc vui vẻ thu hút sự tham gia của đông đảo các giáo phường xa gần.Ai hay hát mà ai hay nghe hátCó lẽ trong các lối hát và ngâm vịnh cổ truyền Việt Nam hiếm có một lối hát nào lại xâm nhập sâu rộng hầu hết các sinh hoạt văn hóa tinh thần như là lối hát ca trù. Có thể nói, nghệ thuật ca trù trải mấy trăm năm, cả Thần và Người đều chuộng. Ở nơi đình miếu, đền đài thâm nghiêm các vị thần thánh nghe hát trong hương trầm đượm tỏa, trong sự sùng phụng của con dân. Trước khi dâng lên các vị thần thì các chức sắc địa phương cũng đã nghiêm trang thẩm định để chọn ra những đào hay kép giỏi, để những đào kép giởi nhất dâng thần khúc hát tuyệt kỹ. Nơi giáo đường thênh thang uy nghiêm, Đức Chúa cũng nghe những lời xưng tụng của con chiên thành kính. Và trong dân gian, mỗi khi khao vọng, cho dù là khao thọ, khao thi đỗ, khao được thăng chức, hay khai trương cửa hiệu, hoặc mừng đón nhau về hoặc mừng tiễn nhau đi đều vời đến đào kép ca trù đến, tùy việc tùy duyên mà thưởng ngoạn câu thơ khổ phách cung đàn. Rồi những khi thư thả việc công, những khi buồn thế thái nhân tình, hoặc câu chuyện tình duyên gặp khi trắc trở, ai đó lại đến một ca quán vịn vào tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào một cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa. Có thể nói ca trù đã đồng hành cùng tâm hồn Việt, trải biết mấy thăng trầm cùng lịch sử vẫn lại đang về tìm lại chỗ đứng trong đời sống văn hóa văn nghệ phong phú đa dạng hôm nay. Vâng! Của tin vẫn một chút này!
Nhacvietplus