Năm 2014, việc phân đoạn giá, mức giá một số tuyến đường về giá đất ở khu vực đô thị, ven đầu mối giao thông, trục đường giao thông chính và các trục đường khác chưa hợp lý. Nhiều địa phương quy định giá chỉ một số tuyến đường lớn, phần còn lại vẫn phải áp dụng theo giá vùng; một số địa phương đã quy định mức giá đất ở bám các tuyến đường nhưng có mức giá quá thấp.
Với giá đất ở nông thôn, một số vùng đã được đầu tư xây dựng đường giao thông nhưng việc cập nhật điều chỉnh bổ sung giá theo tuyến đường còn hạn chế. Giá đất chuyên dùng, phi nông nghiệp khác có hệ số tính giá theo từng địa bàn cơ bản phù hợp.
Theo quy định, Bảng giá đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất làm muối, đất nuôi trồng thủy sản, đất nông nghiệp khác được xây dựng theo từng vị trí. Tuy nhiên, hiện bảng giá đất trên địa bàn Hà Tĩnh đối với các loại đất đang quy định theo hạng đất, trong khi hạng đất từ lâu nay không rà soát điều chỉnh nên quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, bất cập, nhất là trong công tác bồi thường, GPMB.
Theo dự thảo phương án giá các loại đất từ năm 2015, đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thủy sản phân theo 2 loại xã (đồng bằng, miền núi) được xác định theo từng vị trí (có bảng giá cụ thể); đất làm muối chỉ xác định giá cho những địa phương có đất làm muối; đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng tính bằng mức giá đất rừng sản xuất có cùng vị trí; với đất nông nghiệp khác, căn cứ vào từng vị trí, mục đích sử dụng, xác định mức giá bằng với giá đất nông nghiệp liền kề.
Đất ở tại khu vực thành phố, thị xã, thị trấn phân loại theo đô thị và xác định theo tuyến đường, đoạn đường; đất ở nông thôn phân thành 2 loại xã (đồng bằng, miền núi) và xác định giá theo vị trí; giá đất TM-DV được tính bằng 60% giá đất ở cùng vị trí, riêng TP. Hà Tĩnh được tính bằng 70% giá đất cùng vị trí; giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất TM-DV được tính bằng 50% giá đất ở cùng vị trí; đất sử dụng vào mục đích công cộng được tính bằng giá đất có cùng vị trí; đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và đất có mặt nước chuyên dụng nếu sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản thì tính giá đất nuôi trồng thủy sản cùng vị trí, nếu sử dụng vào mục đích khác thì tính bằng giá đất phi nông nghiệp tương ứng quy định tại vùng lân cận.
Đối với đất chưa sử dụng khi cần có giá thì căn cứ vào giá của loại đất liền kề.
Phát biểu tại cuộc họp, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Đình Sơn cho rằng, Dự thảo xây dựng bảng giá đất đã có những vấn đề mới do cách làm mới áp dụng theo Luật Đất đai 2013. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả và ý kiến thảo luận của các đại biểu vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề. Kết quả điều tra, khảo sát giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một trình tự mới trong quy định nhưng chưa đạt yêu cầu. Đây chỉ mới là sản phẩm thô nhưng là cơ sở để xây dựng bảng giá đất, ngoài ra bảng giá còn phụ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu đơn vị đầu tư, đơn vị tư vấn phối hợp các đơn vị khác để rà soát, xử lý biểu mẫu, tiến hành phúc tra lại những chỗ chưa thỏa đáng, những điểm còn nghi vấn để hoàn thiện kết quả điều tra. Bên cạnh đó, xem xét cách làm của những địa phương khác; xem xét lại Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 của Chính phủ quy định về khung giá đất, giá đất phải đảm bảo đúng với thực tiễn địa phương và nằm trong khung quy định. Cần có những cuộc họp, hội thảo để lấy ý kiến phản biện từ đó hoàn thiện bảng giá.
Dương Chiến