Ngày 5/5, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Bình Định ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và truy nã đặc biệt nguy hiểm đối với ông Trương Hải Ân, nguyên Phó Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh này về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Ông Trương Hải Ân (SN 1974, trú phường Nhơn Phú, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) nguyên là Phó giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) tỉnh Bình Định. Theo xác minh của cơ quan chức năng, từ tháng 6/2019 đến nay, ông Trương Hải Ân cùng gia đình đi khỏi địa phương, đi đâu làm gì không xác định được.
Trước đó, Công an tỉnh Bình Định cũng đã phát thông báo yêu cầu ông Trương Hải Ân, đến làm việc để giải quyết đơn tố cáo hành vi chiếm đoạt tài sản.
Theo Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định, đơn vị này đang xác minh đơn thư tố cáo ông Trương Hải Ân đã lấy lý do đáo hạn ngân hàng, kêu gọi đầu tư mua bất động sản có thỏa thuận trước về thời hạn trả và lãi suất, lợi nhuận được hưởng… để huy động tiền của nhiều cá nhân trên địa bàn tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, ông Ân không trả được nợ, đã bỏ việc và cùng gia đình đi khỏi địa phương.
Ông Trương Hải Ân bị truy nã đặc biệt |
Cuối năm 2018, ông Ân có đơn xin nghỉ phép tại cơ quan để đi chữa bệnh. Cũng trong thời gian này, các cơ quan chức năng tỉnh Bình Định liên tục nhận được nhiều đơn tố cáo ông Ân nợ nần hàng chục tỷ đồng.
Tháng 9/2019, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định đã ký quyết định kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc đối với ông Ân. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định cũng đã xem xét, xử lý kỷ luật đối với ông Trương Hải Ân do có những vi phạm như: Vi phạm quy chế làm việc, báo cáo không trung thực lý do xin nghỉ ốm, tự ý nghỉ việc khi chưa có sự đồng ý của lãnh đạo sở, không chấp hành ý kiến chỉ đạo của cấp trên; bỏ sinh hoạt đảng…
Trao đổi với PV Kiến Thức về vụ việc trên, luật sư Đặng Văn Cường, luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng luật sư Chính Pháp (đoàn luật sư thành phố Hà Nội) cho biết: Theo thông tin sự việc từ phía cơ quan chức năng thì ông Trương Hải Ân bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chứ không phải là tội danh thuộc nhóm phạm về chức vụ. Hành vi ban đầu được xác định là lợi dụng uy tín của mình để vay mượn nhiều người, sau đó bỏ trốn...
Về mặt lý luận thì với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì: Chức vụ quyền hạn, vị trí công tác, mối quan hệ, điều kiện kinh tế, khả năng ngoại giao hoặc các lý do khác chỉ là nguyên nhân, động cơ, là cái tạo ra sự “tín nhiệm” trong quan hệ dân sự, là điều kiện để những người bị hại thực hiện các giao dịch dân sự đối với đối tượng, sau đó lợi dụng uy tín đó đối tượng đã gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tiền vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản...
Theo quy định của pháp luật thì dù là nguyên nhân, điều kiện nào để tạo ra uy tín, “tín nhiệm” trong các giao dịch dân sự sau đó có hành vi với mục đích chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên thì đều có thể bị xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Còn hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, danh nghĩa cơ quan, tổ chức để tạo ra uy tín, nhận tài sản của người khác rồi chiếm đoạt thì đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015.
Luật sư Đặng Văn Cường |
Trong vụ việc trên, cơ quan điều tra cho rằng hành vi cấu thành tội phạm là do bị can nhận tiền của nhiều người sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản. Bởi vậy việc bị can nhận tiền của nhiều người thì không khó chứng minh bởi việc nhận tiền có thể có những hợp đồng, giao dịch, giấy biên nhận tiền.
Còn hành vi chuyển hóa từ quan hệ dân sự sang quan hệ hình sự chính là hành vi “bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản” (để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ đối với các người bị hại), cơ quan điều tra phải thu thập các tài liệu chứng cứ để chứng minh vấn đề này.
Các khái niệm “bỏ trốn” và “vắng mặt khỏi” nơi cư trú rất gần nhau nhưng lại khác nhau về bản chất pháp lý. Dưới góc độ pháp lý thì “bỏ trốn” phải gắn liền với mục đích để chiếm đoạt tài sản thì hành vi mới cấu thành tội phạm. “Bỏ trốn” ở đây không nhất thiết cứ phải “đi khỏi nơi cư trú” mà thể hiện ở hành vi trốn tránh sự liên lạc đối với người mà đối tượng có nghĩa vụ phải trả nợ, trả tiền.
Còn đi khỏi nơi cư trú là thực hiện quyền tự do cư trú của công dân, mọi công dân đều có quyền lựa chọn nơi cư trú cho phù hợp với nhu cầu, khả năng phải điều kiện của bản thân mình phải pháp luật ghi nhận và cho phép điều này.
Tuy nhiên, nếu người nào rời khỏi nơi cư trú với mục đích để trốn tránh việc truy tìm, đòi nợ, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì hành vi mới cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Còn nếu họ đi khỏi nơi cư trú để đi làm ăn, đi du lịch, đi chữa bệnh hoặc vì bị người khác đe dọa, uy hiếp... vì bảo toàn tính mạng, sức khỏe mới buộc phải ra đi thì hành vi này không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Cơ quan điều tra sẽ phải làm rõ vấn đề này, làm rõ hành vi của đối tượng là rời khỏi nơi cư trú do nguyên nhân khách quan hay với mục đích để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Nếu bị can rời khỏi nơi cư trú nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ mà trước đó không hề có sự đe dọa, uy hiếp gì, sau khi rời khỏi nơi cư trú thì cắt đứt liên hệ với những người mà bị can vay tiền, mục đích là sẽ không trả nợ với các khoản nợ đã đến hạn, các nghĩa vụ về mặt dân sự đã phát sinh thì hành vi này mới có thể bị xử lý về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra và viện kiểm sát. Nếu quá trình điều tra, thu thập chứng cứ có đầy đủ căn cứ cho thấy đối tượng đã thông qua các giao dịch dân sự để mượn tài sản, nhận tài sản của người khác sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền đó thì sẽ đề nghị tòa án xét xử kết tội bị can.
Với số tiền chiếm đoạt từ 500.000.000 đồng trở lên thì hình phạt sẽ là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu tòa án kết tội.
Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. 4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Tác giả: Xuân Diệp
Nguồn tin: Báo Kiến Thức