Bút ký của Nguyễn Ngọc Vượng
Con sông khói sương bảng lảng này từng lặng thầm chứng kiến bao kiếp người cần lao vất vả vì nặng nợ mưu sinh, hay một lý do nào đó đành phải chia tay với dòng sông đi xa xứ nhưng ngày đêm vẫn luôn ngóng vọng về những khay quýt khốp mọng vàng bày biện nghiêm trang trên ban thờ tổ tiên mỗi khi đông tàn, tết đến….
Mùa đông cũng là mùa của những vườn quýt trải dài hai bên bờ sông Rào Trổ đua nhau khoác lên một màu vàng rộm và tỏa ra mùi hương thơm dịu ngọt trước khi bước qua cả một chu kỳ sinh trưởng với bao cảm xúc buồn, vui và bao nỗi âu lo đợi chờ hồi hộp cùng với người trồng ra nó kể từ buổi đầu mùa xuân đơm hoa, mùa hạ kết trái và trưởng thành vào mùa thu.
Nói đến quýt khốp nhiều người thường gọi đó là quýt Kỳ Thượng, nhưng không phải ở Kỳ Thượng thôn nào cũng trồng được, dù trồng được cũng còi cọt và không thể đem lại cái hương vị đặc trưng của quýt khốp bởi những yếu tố về thổ những, đất đai, truông gió, mạch nước và những mối ràng buộc đầy bí ẩn của cả thế giới tâm linh. Thực ra ở Kỳ Thượng chỉ có một số thôn trồng được giống quýt này là Tân Tiến, Tiến Vịnh, Tiến Quang, Tiến Thượng, Bắc Tiến và Trung Tiến. Ngoài ra quýt khốp còn có thể được phát triển ở thôn Sơn Bình 1, Sơn Bình 2, xã Kỳ Sơn và thôn Bắc Hà, xã Kỳ Lâm gần đó. Có một điều hết sức đặc trưng là quýt khốp không thể sống độc lập mà bất di, bất dịch nó chỉ tồn tại và phát triển khi được sống chung với cả quần thể thực vật, nó luôn cần sự chở che của loài cây khác mà không cần quang hợp ánh sáng. Đặc biệt, khi được trồng xen kẽ với tranh, tre, khế, bưởi gió trầm là hết sức lý tưởng.
Truyền thyết cho rằng, quýt khốp Kỳ Thượng xuất hiện ở đây từ thế kỷ 16, vào thời chúa Nguyễn Hoàng vào nam mở mang bờ cõi. Tới đến Đèo Ngang nhìn thấy cảnh tượng nơi đây vô cùng kỳ bí, chúa Nguyễn quyết định cho cắm trại dừng chân nghỉ ngơi và chỉ tay lên phía Cổng Trời nói với đám quần thần rằng, đây chính là giang sơn của ta. Đêm hôm đó một viên tùy tùng có tên là Khốp không tài nào chớp mắt được vì nhớ mẹ già đang sống độc thân ở một vùng quê bên bờ sông Như Nguyệt thuộc vùng Bắc Bộ xa xôi. Khi trăng đèo Ngang đã gác núi, mọi người đang trong giấc say, viên tùy tùng này đã tìm cách bỏ trốn. Sợ bị phát hiện nên ông đã chọn đường vòng cung men theo chân dãy Hoành Sơn ngược lên hướng tây theo đường thượng đạo để về Bắc.
Vượt qua bao nhiêu khe, suối, dốc, đèo, viên tùy tùng đã đặt chân tới một vùng thung lũng hoang vu nhưng cũng vô cùng nên thơ. Đó chính là vùng Kỳ Thượng, huyện Kỳ Anh ngày nay. Bốn bề bị bao bọc bởi những ngọn núi cao, phía trước lại bị con sông Rào Trổ đang vào mùa lũ hết sức dữ dằn chặn lại, viên tùy tùng đành ngữa mặt lên trời than: Ước gì cho ta một đôi cánh để bay về với mẹ! Rồi bất giác nằm vật xuống bên một hốc đá thiếp đi lúc nào không biết. Đến lúc tỉnh dậy ông thật bất ngờ thấy lũ dữ đã tan biến đi đâu, sông, suối bổng hiền hòa trở lại; nơi phiến đá chổ ông nằm bổng hiện lên một hàng chữ: Mẹ đã đỗ bệnh qua đời sau ngày con theo chúa quân vào nam vừa trọn nửa mùa trăng. Họ hàng thân thích nay không còn ai. Nếu con trở về cũng sẽ bị người ta tìm cách sát hại. Khi nhận được thông tin này ở đâu thì con hãy dừng chân lại đó dựng lấy cơ nghiệp của mình, gác lại giấc mộng binh đao, linh hồn mẹ sẽ tìm về bên con để con tha hồ được phụng thờ, báo hiếu. Như vậy, là mẹ đã toại nguyện nơi chín suối rồi.
Hàng chữ vừa xuất hiện bỗng biến mất, phiến đá cũng tự nhiên nứt ra làm đôi, ở giửa bổng mọc lên một cây lá khẳng khiu có hình dáng lạ vừa hao hao cây chanh vừa hao hao cây chỉ xát. Đúng là giống quýt, nhưng lại không như giống quýt bình thường. Sau hôm đó viên tuỳ tùng đã chọn một khu đất bằng phẳng đẵn cây rào vườn làm lều lập bàn thờ mẹ. Linh cảm điều gì đó, ông quyết định đào cây giống lạ kia về trồng trong vườn. Không ngờ sang tới mùa xuân năm sau cây bắt đầu cho ra hoa màu trắng và tới mùa đông trời đổ rét những chùm quýt đầu mùa bắt đầu chín vàng trên cành lá, tỏa ra một mùi hương thơm dìu dịu. Ông thật sự vui sướng khi được trèo hái những chùm quýt đầu tiên xuống đặt ngay ngắn trên ban thờ mẹ. Và hình như trong lời hương khói ông nghe được mẹ mình mách bảo rằng, không những chỉ múi quýt mà cả lá, vỏ và hạt của nó đều là thần dược của đất, trời nên con phải trồng cho thật nhiều để cứu người.
Sau khi Nguyễn Hoàng lần lượt thu phục vùng Thuận – Quảng, chọn Phú Xuân làm kinh đô tiếp tục gây ra không biết bao nhiêu tang tóc cho dân lành đằng trong thì ở ngoài Bắc Vua Lê, Chúa Trịnh cũng thi nhau hà hiếp chúng dân đến khốn cùng. Thời kỳ này Kỳ Anh được coi là vùng phên dậu và trở thành chốn sa trường thường xuyên xẩy ra những cuộc giao tranh đẫm máu. Nhiều người bị dồn tới đèo Ngang đã liều mình bỏ chạy lên miền ngược trốn nạn binh đao. Dọc theo đường vòng cung dưới chân dãy Hoành Sơn tới hai bên bờ sông Rào Trổ nhiều người đã phải bỏ xác lại vì đói rét và dịch bệnh. Lúc này ông Khốp đã ra tay hái những chùm lá qúyt nấu nước xông cho họ, lấy vỏ quýt, hạt quýt rang vàng hạ thổ sắc cho họ uống cứu giúp được không biết bao nhiêu sinh mệnh con người thoát khỏi lưỡi hái của tử thần.
Có dã thiết cho rằng, cũng chính trong thời li loạn đó mà cả một vùng thượng Kỳ Anh hoang hút bắt đầu dần hình thành nên các làng, xóm nay là địa giới hành chính thuộc các xã Lỳ lâm , Kỳ Sơn, Kỳ Thượng, Kỳ Lạc, Kỳ Hợp và Kỳ Tây. Cho tới nay sử sách vẫn chưa khẳng định di chỉ những bộ tộc đầu tiên xuất hiện ở đây, nhưng có thể nói ông Khốp là một trong những người đầu khai phá mảnh đất này và là người đầu tiên có công đem giống quýt đặc biệt về trồng ở đây tạo nên thương hiệu quýt khốp Kỳ Thượng ngày nay. Trong những thôn trồng được giống quýt này, có vùng gọi là quýt xốp, có vùng gọi là quýt vốp còn hầu hết đều gọi là quýt khốp. Có thể đó là cách phiên âm khác nhau, nhưng tới nay vẫn nhiều người cho rằng danh từ quýt khốp là phiên âm đúng hơn cả. Vì họ cho rằng, để ghi nhớ công lao của ông Khốp, người dân đã lấy tên ông đặt cho giống quýt này.
Có thể nói cây quýt khốp đã tồn tại ở thượng nguồn Rào Trổ từ hơn bốn thế kỷ qua, là tài sản vô giá của người dân nơi này. Cứ vào mùa quýt chín bà con lại rủ nhau guì quýt vượt qua đường rừng gần 30 km về xuôi đem bán nuôi nhau hết thế hệ này đến thế hệ khác. Ông Nguyễn Xuân Tín, Bí thư kiêm chủ tich xã Kỳ Thượng trầm ngâm một lát rồi tâm sự: “Kỳ Thượng có gần 1.700 hộ dân với gần 7.000 khẩu, trong lúc đó chỉ có 133 ha đất sản xuất. Trước đây khi chưa đưa cây chè vào trồng hầu hết thu nhập của bà con chỉ dựa vào cây quýt. Tuy khó khăn, nhưng dẫu sao trên thực tế cây quýt cũng đã nuôi lớn người dân chúng tôi từ hàng trăm năm nay. Tiếc rằng, từ năm 1992 sau khi tỉnh có chủ trương xóa bỏ vườn tạp thì cây qúyt bổng thi nhau chết hàng loạt, vô tình đẩy nhiều hộ xuống cùng quẫn khó khăn. Rất may là giống qúyt nay đang dần lấy lại được thương hiệu nhờ có một số hộ duy trì được bằng cách đem trồng trong trang trại.”
Một trong những người đi đầu cuộc cánh mạng cải tạo vườn quýt và bảo vệ thương hiệu quýt khốp phải kể đến vợ chồng ông Võ Văn Minh ở thôn Trung Tiến. Sau khi vườn quýt của nhà mình bị phá sản do phải chấp hành chủ trương xóa bỏ vườn tạp, thương cha mình là cụ Võ Văn Vừng đã tạo dựng nên vườn quýt nuôi bảy anh, chị em ông khôn lớn thành người nên ông đành gạt nước mắt quyết định bỏ lại mảnh vườn hương hỏa dắt vợ, con lên động Nhà Hòi, thôn Bắc Tiến lập nghiệp trồng quýt. Bởi tính cách của cây qúyt khốp mang tính cộng đồng rất cao nên trước khi trồng lại ông đã nghiên cứu kỹ các loài cây bụi tự nhiên, ông cho trồng thêm các loài gió trầm, cam, bưởi là những giống cây được trồng rất nhiều trong vườn cũ của nhà mình rồi mới xen dắm các gốc quýt khốp lên đó. Đến nay vườn quýt của ông đã trưởng thành có lứa hơn 10 năm tuổi đã phủ kín cả động Nhà Hòi có diện tích gần 7ha với số lượng trên 5.000 cây là vườn quýt quy mô nhất từ trước tới nay ở vùng này.
Ngoái về tuổi thơ nơi vườn quýt quê nhà
Theo ông Võ Văn Minh thì tuổi thọ của cây quýt kéo dài khoảng 25 đến 30 năm, chỉ có giống đúc hạt mới đảm bảo được chất lượng và sản lượng. Mỗi gốc quýt mỗi mùa có thể cho thu hoạch 20 thúng quả, mỗi thúng có trọng lượng khoảng 12kg, mỗi kg 01kg có giá trung bình bán tại gốc khoảng 15.000 đồng. Vơí vườn quýt hiện tại gia đình ông đang sở hữu, một mùa có thể cho thu hoặch từ 30 tấn đến 40 tấn quả, Như vậy, riêng thu nhập từ quả, mỗi mùa cũng có thể đem về được cho gia đình nhà ông từ 45 triệu đến 60 triệu đồng. Chưa kể mỗi mùa cây quýt còn cho thu hoặch từ 1,5 đến 2 tấn vỏ và hàng chục kg hạt. Đơn giản mỗi sáng vợ chồng ông ra vườn nhặt quýt rụng mang ra suối xát bỏ múi, lấy vỏ và hạt phơi khô bán cho các hiệu thuốc nam thấp nhất cũng có giá hơn 4 triệu đồng cho 01 tạ vỏ và hơn 20.000 đồng cho 01 kg hạt. Nhờ có vườn quýt mà vợ chồng ông còn lo được cho hai người con sang làm ăn sinh sống ở châu Âu và giải quyết việc làm ổn định cho 6 lao động khác trong gia đình.
Có một điều là hiện nay không riêng gì gia đình ông Minh mà khiến nhiều người tâm huyết với cây quýt khốp phải lo lắng là liệu giống quýt có thể tồn tại trên vùng thượng nguồn Rào Trổ này được bao lâu khi Hà Tĩnh giao cho cho Tập đoàn tư nhân Hoành Sơn làm chủ đầu tư, đồng thời thi công hồ chứa nước Rào Trổ với trữ lượng 162,4 triệu m3 nước theo hình thức BOT. Với cao trình 84m, sau khi hoàn thành đập Rào Trổ sẽ làm ngập hàng ngàn ha đất, trong đó riêng xã Kỳ Thượng bị ngập tới 1.900 ha sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển nghề trồng quýt. Để tạo điều kiện cho dự án thực hiện thành công nhiều người dân đã đồng lòng ủng hộ. Tuy vậy, làm thế nào để duy trì được giống quýt đang là một phép tính khó rất cần nhận được sự quan tâm của các ngành, các cấp nếu không dự án sẽ trở thành lợi bất cập hại.
Ngoài giá trị về kinh tế, giá trị dược liệu, quýt khốp Kỳ Thượng còn có giá trị trong việc chế biến các món thức ăn dân dã mà không có gia vị nào có thể thay thế được như vỏ của nó dùng để nấu rươi, kho mắm, hầm cá đồng; lá của nó đem nấu thịt chó, dã cầy thì tuyệt chiêu. Quả qút khốp Kỳ Thượng có đặc điểm to hơn quýt thường, da của nó sần sùi, phần đuôi lõm sâu và thường chuyển sang màu đỏ nhạt trước khi trái quýt chín đều; múi quýt mọng và cong như hình lưỡi liềm có vị thanh thanh, ngọt ngọt và bùi bùi. Cắn vào một múi nhỏ là ta có cảm giác the the nơi đầu lưỡi, lịm ngọt tận từng kẽ răng đến đầu cổ họng, nuốt tới đâu ấm ran tới đó, trong chốc lát bổng như xua đi tất cả cái rét mùa đông. Người bị cảm sốt có thể không cảm nhận được bất cứ thi vị gì trên đầu lưỡi khi ăn vào kể cả những món sơn hào, hải vị, nhưng khi mâm một múi quýt khốp vào miệng, vị giác của họ vẫn dễ nhận ra ngay thi vị đặc biệt này.
Trên hết tất cả là cây quýt khốp Kỳ Thượng cùng với bao thế hệ con người ở đây đã trải qua bao biến thiên thời cuộc và dâu bể thời gian trở thành giá trị văn hóa thiêng liêng, luôn là miền thương, nỗi nhớ của bao ngườ đi xa nhất là những khi đông tàn tết đến.
Kỳ Thượng, mùa đông 2011
Báo Hà Tĩnh